Câu hỏi |
Trả lời |
Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu cho Chính phủ xem xét sửa đổi điểm c khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP, ngày 27/8/2021 của Chính phủ theo hướng thực hiện chỉ trả kinh phí hỗ trợ chi phí học tập cho người học 1 lần trong năm vào đầu kỳ của năm học để các gia đình của học sinh giảm bớt khó khăn, đặc biệt là đảm bảo việc mua sách giáo khoa ngay từ đầu năm học. |
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) cảm ơn sự quan tâm của cử tri tỉnh Hà Giang. Về vấn đề này, Bộ GDĐT xin được trả lời cụ thể như sau:
Do đặc thù năm học tính từ tháng 9 năm trước kéo dài đến khoảng tháng 6 năm sau, trong khi năm tài chính kết thúc vào 31/12 hằng năm. Vì vậy, để thống nhất với quy định của Luật Ngân sách nhà nước trong công tác xây dựng dự toán và quyết toán ngân sách của các cơ sở giáo dục, tại điểm c khoản 2 Điều 21 Nghị định số 81/2021/NĐ-CP quy định: “Kinh phí hỗ trợ chi phí học tập được cấp không quá 9 tháng/năm học và chi trả 2 lần trong năm: Lần 1 chi trả 4 tháng vào tháng 10 hoặc tháng 11; lần 2 chi trả 5 tháng vào tháng 3 hoặc tháng 4". |
Cử trì tiếp tục kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu cho Chính phủ xem xét sửa đổi điểm c khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP, ngày 27/8/2021 của Chính phủ theo hướng thực hiện chỉ trả kinh phí hỗ trợ chi phí học tập cho người học 1 lần trong năm vào đầu kỳ của năm học để các gia đình của học sinh giảm bớt khó khăn, đặc biệt là đảm bảo việc mua sách giáo khoa ngay từ đầu năm học. |
Về vấn đề này, Bộ GDĐT xin được trả lời cụ
thể như sau:
Tại điểm a khoản 2 Điều 21 của Nghị định số
81/2021/NĐ-CP đã có quy định cụ thể, gồm 02 phương án: (1) Phòng GDĐT chịu
trách nhiệm chi trả, quyết toán kinh phí hỗ trợ chi phí học tập trực tiếp cho
cha mẹ (hoặc người giám hộ) trẻ em học mẫu giáo, học sinh tiểu học, học sinh
trung học cơ sở; cha mẹ (hoặc học viên) học ở các cơ sở giáo dục thường xuyên; (2)
Phòng GDĐT ủy quyền cho cơ sở giáo dục chi trả kinh phí hỗ trợ chi phí học tập
trực tiếp cho cha mẹ (hoặc người giám hộ) trẻ em học mẫu giáo, học sinh tiểu
học, học sinh trung học cơ sở; cha mẹ (hoặc học viên) học ở các cơ sở giáo dục
thường xuyên và cơ sở giáo dục quyết toán với Phòng GDĐT.
Như vậy, Phòng GDĐT có thể ủy quyền cho cơ
sở giáo dục chi trả, quyết toán kinh phí hỗ trợ cho học sinh. |
Đề nghị tham mưu cho Chính phủ có cơ chế
chính sách đối với trường phổ thông dân tộc bán trú khi ra khỏi vùng III tiếp
tục được duy trì trường bán trú, để nâng cao chất lượng công tác dạy và học,
đồng thời giảm được các điểm trường. |
Về vấn đề này, Bộ GDĐT xin được trả lời cụ
thể như sau:
Thực hiện Luật Giáo dục 2019 và Nghị quyết
số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ, Bộ GDĐT đã xây dựng Nghị định quy
định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có
trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách (thay thế Nghị định số 116/2016/NĐ-CP
và Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT). Điều 4 Dự thảo Nghị định về
điều kiện hưởng chính sách học sinh bán trú đã mở rộng đối tượng học sinh đang
học tại các trường, điểm trường có trụ sở đóng trên địa bàn vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi (xã vùng I, II, III, xã có thôn đặc biệt khó khăn). Dự
thảo Nghị định cũng mở rộng thêm đối tượng hưởng chính sách học sinh bán trú là
người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mà bản thân và
bố hoặc mẹ hoặc người giám hộ thường trú ở xã khu vực II, khu vực I vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Mặt khác, tại Thông tư số 03/2023/TT-BGDĐT
ngày 06/02/2023 của Bộ GDĐT ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của trường
phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) đã điều chỉnh giảm tỷ lệ học sinh bán trú
cần phải bảo đảm trong trường PTDTBT.
Đồng thời, tại Nghị định số 46/2017/NĐ-CP
ngày 21/4/2017 của Chính phủ Quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, khoản 2 Điều 76 quy định “Trường PTDTBT không đảm bảo tỷ lệ
học sinh dân tộc và tỷ lệ học sinh bán trú trong 03 năm liền thì được chuyển
đổi thành trường phố thông công lập”, không bắt buộc trường PTDTBT phải chuyển
đổi ngay. |
Đề nghị có văn bản hướng dẫn cụ thể việc
duy trì trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) tại các địa bàn thuộc xã nằm
trong vùng I được thực hiện như thế nào. Vì hiện nay trong quá trình tổ chức
thực hiện đã gặp một số vướng mắc sau:
Tại Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BGDĐT ngày
24/12/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban hành Thông tư về Quy chế tổ chức và
hoạt động của Trường PTDTBT được hợp nhất bởi (Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT và
Thông tư số 30/2015/TT-BGDĐT), theo đó tại khoản 2 Điều 12 của Thông tư này quy
định cụ thể việc đình chỉ hoạt động và chuyển đổi Trường PTDTBT: Đình chỉ hoạt
động và chuyển đổi Trường PTDTBT, quy định Trường PTDTBT không đảm bảo tỷ lệ
học sinh dân tộc và tỷ lệ học sinh bán trú theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của
Quy chế này trong vòng 3 năm liền thì chuyển thành trường phổ thông công lập.
Tuy nhiên, Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BGDĐT đã hết hiệu lực thi hành. Hiện
nay, các trường PTDTBT đang thực hiện Thông tư số 03/2023/TT-BGDĐT, ngày
06/2/2023 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trường PTDTBT. Tuy nhiên,
trong Thông tư không có quy định hướng dẫn các trường PTDTBT (khi không đủ các
điều kiện duy trì mô hình trường PTDTBT) và không có quy định việc đình chỉ
hoạt động và chuyển đổi trường PTDTBT thành trường phổ thông công lập. Do vậy,
việc duy trì Trường PTDTBT tại các địa bàn thuộc xã nằm trong vùng I đối với
các địa phương còn lúng túng. |
Về vấn đề này, Bộ GDĐT xin được trả lời cụ
thể như sau:
Thông tư số 03/2023/TT-BGDĐT ngày
06/02/2023 của Bộ GDĐT ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ
thông dân tộc bán trú không quy định, hướng dẫn việc đình chỉ hoạt động và
chuyển đổi trường phổ thông dân tộc bán trú.
Việc quy định đình chỉ hoạt động và chuyển
đổi trường phổ thông dân tộc bán trú được thực hiện theo quy định tại Điều 76
Nghị định số 46/2017/NĐ-CP ngày 21/4/2017 của Chính phủ quy định về điều kiện
đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. |
|