quyết tâm thực hiện thắng lợi NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG KHÓA XVII, NHIỆM KỲ 2020 - 2025 

Danh sách khóa

Các bộ, ngành trả lời

CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 8– QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri các xã, phường, thị trấn trong tỉnh kiến nghị:
Việc tăng lương hiện nay không theo kịp với Đề án cải cách tiền lương và mặt bằng giá cả chung của khu vực kiến nghị chính phủ cải cách chế độ tiền lương theo hướng tăng hệ số lương trong thang lương, bảng lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đảm bảo an sinh xã hội cho người về hưu. Đồng thời, cử tri nhiều lần kiến nghị chính phủ sớm có chính sách cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức xã, người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
1. Về tiền lương đối với cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã:

a) Cán bộ, công chức ở cấp xã được thực hiện chế độ tiền lương theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Theo đó, Bộ Nội vụ đã phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội ban hành Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 27 tháng 5 năm 2010 hướng dẫn thực hiện. Trong đó, đã quy định cán bộ, công chức cấp xã có trình độ đào tạo phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của chức danh hiện đảm nhiệm được xếp lương theo các ngạch công chức hành chính.

b) Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thực hiện chế độ phụ cấp hàng tháng quy định tại Nghị định số 29/2003/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của chính phủ, trong đó đã quy định thực hiện chế độ khoản quỹ phụ cấp hàng tháng đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Số lượng, chức danh, mức phụ cấp của từng chức danh, mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố từ nguồn kinh phí khoản quỹ phụ cấp của ngân sách Trung ương và nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định bảo đảm tương quan hợp lý với hệ số lương của cán bộ, công chức cấp xã và khuyến khích những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố có trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.

2. Về Đề án cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức:

Vấn đề cử tri nêu trên đã được Bộ Nội vụ tổng hợp, báo cáo và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết trong quá trình nghiên cứu xây dựng Đề án cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp. Đề án này đã được trình tại hội nghị Trung ương 5 khóa XI (tháng 5 năm 2012) và Hội nghị Trung ương 7 khóa IX (tháng 5 năm 2013). Tuy nhiên, do nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, việc triển khai thực hiện các giải pháp tạo nguồn và đổi mới cơ chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, tinh giảm biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máu đối với các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đang triển khai thực hiện chưa có nhiều kết quả, nên khó bố trí đủ nguồn cho cải cách tiền lương. Vì vậy, Trung ương chưa thông qua Đề án và tiếp tục giao cho Ban cán sự Đảng chính phủ  chuẩn bị kỹ Đề án để trình Trung ương vào thời điểm thích hợp, khi có đủ điều kiện thực hiện.

Trong thời gian Trung ương chưa thông qua Đề án cải cách chính sách tiền lương, không bổ sung các loại phụ cấp đặc thù theo ngành nghề. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách nhà nước, Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với cơ quan liên quan trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét từng bước điều chỉnh tiền lương theo đúng kết luận số 63-KL/TW của Hội nghị trung ương 7 khóa XI.
Cử tri Ban Quản lý khu kinh tế cửa khẩu kiến nghị:
Hiện nay, các doanh nghiệp khi nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ qua cửa khẩu phải thực hiện việc giám định chất lượng. Đề nghị chính phủ xem xét cho thành lập Trạm giám định chất lượng hàng hóa máy móc, thiết bị công nghệ tại cửa khẩu để giảm chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ khoa học và công nghệ đang xây dựng Thông tư sửa đổi Thông tư số 20/2014/TT-BKHCN quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng. Về điều kiện nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng có nội dung quy định về % chất lượng còn lại và việc xác định % chất lượng còn lại do tổ chức giám định thực hiện. Dự kiến tổ chức giám định được thành lập theo quy định tại Luật Thương mại.

Sau khi Thông tư được ban hành, Bộ Khoa học và công nghệ sẽ gửi văn bản tới Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố để triển khai, thực hiện.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TẠI KỲ HỌP THỨ 9– QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành quy hoạch và xây dựng cơ chế “Liên kết phát triển vùng dược liệu miền núi biên giới phía Bắc gắn với các khu, công nghiệp chế biến dược liệu ở Hà Giang” với cơ chế ưu đãi cho vùng khó khăn; cho phép tỉnh Hà Giang được xây dựng Đề án trình Chính phủ về “Thí điểm các cơ chế, chính sách đặc thù ưu tiên vùng khó khăn, biên giới phát triển nông – công nghiệp dược liệu quy mô lớn” kết nối các địa phương trong vùng. Hà Giang là địa phương được xác định có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, chế biến cây dược liệu trong vùng miền núi phía Bắc. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Hà Giang đã xây dựng Đề án phát triển cây dược liệu trên địa bàn Tỉnh. Từ năm 2013 đến nay, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có nhiều văn bản ủng hộ chủ trương và góp ý trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Đề án của Tỉnh và Đề án đang được Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định ban hành. Việc xây dựng Đề án trên nhằm hiện thực hóa quy hoạch tổng thể phát triển cây dược liệu đến năn 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2013.

Để phát huy điều kện tự nhiên nhằm sản xuất hàng hóa quy mô lớn, gắn với chế biến, tiêu thụ dược liệu, cần thiết phải xây dựng quy hoạch vùng và nghiên cứu ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù khuyến khích phát triển cho vùng khó khăn như các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và Hà Giang nói riêng. Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thống nhất với các đề nghị trên của cử tri Hà Giang và sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đề nghị cho chủ trương để Hà Giang được xây dựng và báo cáo Chính phủ phương án quản lý và sử dụng nguồn thu hoạt động xuất – nhập khẩu qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh. Theo quy định tại Điều 30 Luật ngân sách Nhà nước, số thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu là khoản thu của ngân sách trung ương hưởng 100% và được cân đối để đảm bảo các nhiệm vụ chi của NSTW, trong đó có nhiệm vụ chi hỗ trợ các địa phương phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.

Ngày 10/11/2011 Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 2 đã có Nghị quyết số 14/2011/QH13 về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2012; trên cơ sở đó Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2113/QĐ-TTg ngày 28/11/2011 về giao dự toán ngân sách Nhà nước năm 2012, trong đó đã quy định: Hàng năm, dành tối đa 30% số vượt thu so với dự toán (dự toán thu phải cao hơn số thực hiện năm trước) đối với số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của hàng hóa thông quan tại cửa khẩu quốc tế đường bộ trên địa bàn cho ngân sách các tỉnh có cửa khẩu quốc tế đường bộ để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu kinh tế cửa khẩu. Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định số vượt thu; báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án phân bổ cho các tỉnh có cửa khẩu quốc tế đường bộ để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu kinh tế cửa khẩu trong giai đoạn 2012 – 2015 theo Đề án đầu tư khu kinh tế cửa khẩu được phê duyệt nhưng không quá 200 tỷ đồng/năm/địa phương.

Đối với cửa khẩu Thanh Thủy của Tỉnh Hà Giang được nâng cấp lên cửa khẩu quốc tế theo Quyết định số 556/QĐ-TTg ngày 18/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ, căn cứ quy định trên và kết quả thực hiện thu ngân sách năm 2015, Bộ Tài chính sẽ chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định số vượt thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ năm 2015 của hàng hóa thông quan tại cửa khẩu quốc tế đường bộ trên địa bàn Tỉnh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án phân bổ cho các tỉnh có cửa khẩu quốc tế đường bộ để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu kinh tế cửa khẩu trong giai đoạn 2012 – 2015 theo Đề án đầu tư khu kinh tế cửa khẩu được phê duyệt.
Đề nghị Chính phủ triển khai các nhóm chính sách hỗ trợ việc tái cơ cấu khu vực tài chính, giảm thiểu rủi ro bất ổn tài chính.
 
Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh là một trong các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2015 và tiếp tục là mục tiêu ưu tiên trong giai đoạn tiếp theo. Ba trụ cột tái cơ cấu nền kinh tế bao gồm: Tái cơ cấu đầu tư trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu thị trưởng tài chính và tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).

Đối với khu vực tài chính, tái cơ cấu cần tập trung triển khai các giải pháp cơ bản sau:

(1) Đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và Tổng công ty thông qua việc triển khai sắp xếp lại DNNN, cổ phần hóa và thoái vốn ngoài ngành nhằm bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp; nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, tăng nguồn thu cho NSNN và tạo việc làm cho người lao động.

(2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo tính công khai, minh bạch, ổn định và phù hợp với nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.

(3) Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; quyết liệt chống thất thu, chống buôn lậu, gian lận thương mại, chuyển giá, giảm nợ đọng thuế; đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người nộp thuế để thúc đẩy phục hồi tăng trưởng, tăng thu NSNN.

(4) Tăng cường công tác quản lý chi NSNN, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả; cơ cấu lại chi NSNN theo hướng điều chỉnh tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN và giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên mức hợp lý; bố trí chi đảm bảo các khoản nợ đến hạn.

(5) Đẩy mạnh cơ chế tự chủ tài chính đối với khu vực sự nghiệp công. Xây dựng lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN theo hướng từng bước tính đủ chi phí phù hợp với khả năng đóng góp của người dân; đồng thời Nhà nước có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người có công với cách mạng, đối với chính sách được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công cơ bản thiết yếu.

(6) Thực hiện nhất quán chủ trương quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, trong đó chú trọng điều hành giá đối với một số mặt hàng (điện, xăng dầu, dịch vụ công,…) theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát.

(7) Thực hiện các biện pháp cơ cấu lại các khoản nợ, nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ.

(8) Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường tài chính, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu; điều hành lãi suất trái phiếu chính phủ linh hoạt phù hợp với điều hành chính sách tiền tệ đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho NSNN.
Đề nghị Chính phủ triển khai các nhóm chính sách hỗ trợ việc tái cơ cấu khu vực tài chính, ngân hàng.”
 
 Tái cấu trúc nền kinh tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, trong đó, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) là một trong ba trụ cột cùng với tái cơ cấu đầu tư công, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chính vì vậy, Đề án “cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” đã sớm được Bộ Chính trị, Chính phủ thông qua và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2013 (Đề án 254) thể hiện sự chủ động của ngành Ngân hàng và sự quyết tâm của Đảng, Chính phủ trong việc lành mạnh hóa hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, để tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án 254, ngày 13/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 454/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành triển khai Đề án 254 do Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh làm Trưởng Ban Chỉ đạo. NHNN cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án.

Đề triển khai Đề án 254 một cách hiệu quả, trong thời gian qua, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN và các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai các nhóm chính sách hỗ trợ cho công cuộc tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), cụ thể:

- Hoàn thiện một bước căn bản và triển khai đồng bộ khung pháp lý hỗ trợ cơ cấu lại hệ thống ngân hàng góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý cho công tác cơ cấu lại, xử lý nợ xấu, đặc biệt là giúp huy động các nguồn lực trong xã hội, bao gồm cả nguồn lực nước ngoài tham gia.

- NHNN đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn đối với vấn đề liên quan đến: xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm, cơ cấu lại các TCTD là công ty con của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước; Hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động của các thị trường (bất động sản, hàng hóa)…

- NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trọng thoái vốn đầu tư ra khỏi lĩnh vực ngân hàng theo Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Điều hành chủ động linh hoạt chính sách tiền tệ cũng như các chính sách vĩ mô khác phù hợp với diễn biến thị trường nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, góp phần hỗ trợ cơ cấu lại TCTD và xử lý nợ xấu.

- Các chủ trương, chính sách cấp phép của NHNN tiếp tục theo hướng chặt chẽ, thận trọng, gắn với yêu cầu, mục tiêu thực hiện cơ cấu lại hoạt động, mạng lưới và nâng cao năng lực quản trị, kiểm soát rủi ro của TCTD và xử lý nợ xấu, đồng thời hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa và địa bàn nông thôn.

- Triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại toàn diện các TCTD, trong đó tập trung xử lý những TCTD yếu kém, khuyến khích, tạo điều kiện cho việc mua bán, sáp nhập, hợp nhất các TCTD.

Đến nay, sau hơn 3 năm triển khai quyết liệt, đồng bộ và toàn diện trong toàn hệ thống, tái cơ cấu các TCTD theo Đề án 254 đã đạt được một số kết quả nội bật như sau:

- Các TCTD yếu kém đã được kiểm soát; mức độ an toàn hệ thống các TCTD được cải thiện. Tâm lý thị trường và công chúng được giữ ổn định và phản ứng tích cực đối với các giải pháp cơ cấu lại các TCTD.

- Quá trình sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD diễn ra mạnh mẽ, an toàn và đạt được kết quả khả quan, góp phần giảm số lượng TCTD, tăng quy mô TCTD. Từ năm 2011 đến tháng 6/2015, hệ thống TCTD đã giảm 15 TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, các TCTD tham gia sáp nhập, hợp nhất đều hoạt động an toàn, lành mạnh hơn, góp phần quan trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD và xử lý các TCTD yếu kém.

- Các TCTD quan tâm đổi mới, nâng cao hiêu quả hệ thống quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ và rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy sắp xếp lại mạng lưới.
- Sở hữu chéo, đầu tư chéo trong lĩnh vực ngân hàng được xử lý từng bước thông qua nhiều giải pháp đồng bộ, đặc biệt là thông qua công tác thanh tra, giám sát; hợp nhất, sáp nhập ngân hàng và ban hành các quy định pháp lý mới.

- Khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và tái cơ cấu, xử lý nợ xấu đã được hoàn thiện một bước tạo môi trường cho hoạt động ngân hàng an toàn, lành mạnh và hiệu quả, đồng thời góp phần nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN và hỗ trợ cơ cấu lại các TCTD.

Những kết quả đạt được trong cơ cấu lại các TCTD đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm sự an toàn của hệ thống các TCTD, sự ổn định của hệ thống tài chính, kinh tế vĩ mô, hỗ trợ điều hành chính sách tiền tệ, ổn định thị trường tiền tệ và tạo nền tảng vững chắc hơn cho các TCTD phát triển lành mạnh, hiệu quả trong thời gian tới. Trong điều kiện còn không ít những khó khăn, kết quả đạt được nói trên cho thấy nỗ lực và quyết tâm cao của ngành Ngân hàng trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng; đồng thời đã chứng minh các giải pháp cơ cấu lại các TCTD đã được triển khai quyết liệt theo đúng mục tiêu, định hướng đề ra.

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nêu tại các Nghị quyết của Chính phủ, Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD và Đề án xử lý nợ xấu của các TCTD đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đảm bảo hoàn thành về cơ bản các mục tiêu cơ cấu lại hệ thống các TCTD đã đặt ra vào cuối năm 2015.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị quan tâm chỉ đạo và phối hợp với tỉnh Hà Giang triển khai có hiệu quả quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn giai đoạn 2012 - 2020, tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ phân công tại Quyết định số 310/QĐ-TTg ngày 07 tháng 02 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn 2030, ngày 31 tháng 12 năm 2013, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã có Công văn số 4795/BVHTTDL-KHTC về việc uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang chủ trì phối hợp với các đơn vị của Bộ và các đơn vị có liên quan tổ chức nghiên cứu, xây dựng "Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Cao nguyên đá Đông Văn, tỉnh Hà Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.

Ngày 30 tháng 10 năm 2014, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 3619/QĐ-BVHTTDL phê duyệt Đề cương, nhiệm vụ Dự án "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Khu du lịch quốc gia Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030". Trong quá trình triển khai lập dự án Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch sẽ phối hợp với địa phương để xin ý kiến các Bộ, ngành, đơn vị liên quan để hoàn thiện dự án và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương cho tỉnh Hà Giang phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương lập Dự án xây dựng làng văn hoá các dân tộc của tỉnh Hà Giang.
- Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đồng ý về mặt chủ trương trong việc xây dựng làng văn hoá các dân tộc của tỉnh Hà Giang.
- Để triển khai công việc, đề nghị tỉnh Hà Giang:
+ Xây dựng Dự án cụ thể: Xác định địa điểm, quy mô, nội dung hoạt động, tiến độ triển khai, kinh phí, hiệu quả dự án...
+ Sau khi Dự án hoàn thiện, đề nghị gửi Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp thẩm định về mặt nội dung (cùng với ý kiến của các Ban, Bộ, ngành Trung ương có liên quan), có ý kiến thoả thuận và làm quy trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TẠI KỲ HỌP THỨ 10 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Chương trình xây dựng nông thôn mới với phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm đã rất thành công ở nhiều nơi, đặc biệt là việc xây dựng đường giao thông nông thôn đã trở thành phong trào lớn; nhưng do nguồn vốn hỗ trợ còn rất hẹp, cử tri các xã từ nội địa đến biên giới kiến nghị Chính phủ phát hành trái phiếu xi măng để đầu tư hỗ trợ nhân dân làm đường giao thông nông thôn góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn miển núi.
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12/11/2015 về phê duyệt Chủ trương đầu tư các Chương trình MTQG giai đoạn 2016 – 2020, trong đó tổng vốn thực hiện từ Ngân sách Nhà nước tối thiểu cho Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới là 193.155,6 tỷ đồng (Ngân sách Trung ương 63.155,6 tỷ đồng; ngân sách địa phương 130.000 tỷ đồng), như vậy ngân sách Trung ương hỗ trợ cho Chương trình trong 05 năm tới sẽ tăng ít nhất 3,8 lần so với giai đoạn 2011 – 2015. Trong quá trình điều hành, Chính phủ sẽ tiếp tục cân đối ngân sách Trung ương để có thể hỗ trợ thêm cho Chương trình và có giải pháp huy động hợp lý mọi nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện. Nội dung phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản (trong đó có đường giao thông nông thôn) được xác định là 01 trong 06 nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình 02 năm tới.

Đồng thời, để tiếp tục đẩy nhanh tiến độ phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn, nhất là ở các xã khó khăn, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh, Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương, đã giao cho Bộ Giao thông Vận tải cùng với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ về đề án hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn bằng xi măng cũng như vận động nguồn vốn vay ODA của các tổ chức tài chính quốc tế cho chương trình.    
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị hỗ trợ tỉnh Hà Giang kinh phí để tỉnh tiến hành lập hồ sơ, giao đất giao rừng ngoài thực địa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài cho các Ban quản lý rừng phòng họ theo quy định của Luật bảo vệ phát triển rừng và Luật đất đai để đẩy nhanh tiến độ và đạt hiệu quả đề án sắp xếp, đổi mới các lâm trường quốc doanh theo tinh thần Nghị quyết 28 – NQ/TW ngày 26/6/2003 của Bộ chính trị.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh tại văn bản số 7072/VPCP – KTTH ngày 09/9/2015 của Văn phòng Chính phủ về kinh phí thực hiện công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các công ty nông, lâm nghiệp, Bộ Tài chính đã có văn bản số 14279/BTC-NSNN ngày 13/10/2015 trình Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ kinh phí cho các địa phương (trong đó có tỉnh Hà Giang) để thực hiện công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các công ty nông, lâm nghiệp.

Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2394/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 đồng ý với đề nghị của Bộ Tài chính tại văn bản số 14279/BTC-NSNN ngày 13/10/2015, trên cơ sở đó, Bộ Tài chính có văn bản số 317/BTC-NSNN ngày 08/01/2015 thông báo cho các địa phương để thực hiện. Đồng thời, đề nghị tỉnh Hà Giang chủ động sử dụng nguồn ngân sách địa phương, hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương và huy động các nguồn lực tài chính hợp pháp khác để thực hiện.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét tăng nguồn vốn đầu tư công cho Hà Giang giai đoạn từ năm 2015 – 2020, đặc biệt là vốn đầu tư làm đường giao thông và đầu tư chob công trình thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở các huyện, xã đặc biệt khó khăn. Qua tiếp xúc cử tri nhiều xã trong tỉnh, cử tri kiến nghị nhân dân đã sản xuất được một số sản phẩm nông, lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao, là thế mạnh trong xóa đói giảm nghèo bền vững, nhưng do giao thông đi lại khó khăn nên không tiêu thụ được, mặt khác một số diện tích đất nếu được đầu tư hệ thống tưới tiêu sẽ tăng diện tích sản xuất, tạo việc làm và tăng thu nhập.
Trong những năm qua, Hà Giang là một trong những địa phương được Trung ương quan tâm bố trí vốn đầu tư thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có các dự án giao thông, thủy lợi… Kế hoạch vốn ngân sách trung ương hỗ trợ cho tỉnh giai đoạn 2011 – 2015 là 3.634.433 triệu đồng (bao gồm cả vốn ODA); tổng kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ phân bổ cho tỉnh trong giai đoạn 2012 – 2016 là 2.313.275 triệu đồng. Ngoài ra, tỉnh còn được hỗ trợ nhiều từ các nguồn vốn khác như vốn dự phòng ngân sách trung ương, vốn tăng thu ngân sách trung ương, vốn kết dư…

Trong giai đoạn 2016 – 2020, tỉnh Hà Giang tiếp tục được ưu tiên đầu tư ở mức cao nhất. Tại công văn số 916/BKHĐT-TH ngày 05 tháng 02 năm 2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỉnh Hà Giang được thông báo kiểm tra kế hoạch vốn đầu tư trung hạn nguồn NSNN giai đoạn 2016 – 2020, trong đó vốn ngân sách trung ương dự kiến là 8.170.098 triệu đồng (bao gồm cả vốn ODA)./.
UBND TỈNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 11 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri huyện Đồng Văn kiến nghị:
Đề nghị tỉnh quan tâm, chủ đầu tư mở rộng tuyến đường Đồng Văn đi Bảo Lâm, Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng để thu hút khách du lịch cho tỉnh.
- Tuyến đường từ Đồng Văn đi Bảo Lâm, Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng có thể theo 2 hướng: Hướng thứ nhất: Từ huyện lỵ Đồng Văn đi theo quốc lộ 4C – Mèo Vạc – Niêm Sơn – Bảo Lâm – Bảo Lạc; Hướng thứ hai: Thwo QL4C từ huyện lỵ Đồng Văn đi theo Quốc lộ 4C – Yên Minh, đi Mậu Duệ về Minh Ngọc (Km31 của QL 34), sau đó theo QL34 sang Bảo Lạc, Cao Bằng. Theo 2 hướng đi trên, cần nâng cấp QL 4C, QL 34 và đường tỉnh 176 và đường Minh Ngọc – Du Già- Mậu Duệ.
Hiện nay đối với các tuyến đường do tỉnh quản lý, đoạn từ Minh Ngọc đến Du Già đã được nâng cấp (đường cấp VI), sửa chữa bằng nguồn vốn WB và đưa vào sử dụng năm 2014. Đoạn từ Du Già đi Mậu Duệ hiện nay được nâng cấp (đường cấp VI), sửa chữa bằng nguồn vốn WB, dự kiến đưa vào sử dụng năm 2016. Riêng đoạn tỉnh 176 từ Yên Minh (Km100 của QL 4C) đi Mậu Duệ đã được sửa chữa năm 2014, tuy nhiên do nguồn kinh phí của địa phương hạn hẹp nên chưa thực hiện nâng cấp được.
Về đầu tư QL 34: Năm 2015, UBND tỉnh đã đề nghị Chính phủ và Bộ Giao thông Vận tải xem xét đầu tư QL 34 và QL 4C. Ngày 21/12/2012 Bộ GTVT đã có Quyết định số 331/BGTVT –KHĐT cho phép lập dự án QL34. Tuy nhiên, theo Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đã trình đề xuất đầu tư với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đưa vào kế hoạch trung hạn. Hiện nay, do chưa bố trí được kế hoạch vốn nên Bộ GTVT chưa phê duyệt được chủ trương đầu tư. Trước mắt Bộ GTVT đã giao cho Tổng cục Đường bộ bố trí vốn bảo trì để đảm bảo an toan giao thông trên tuyến.
Về đầu tư QL 4C: Để đưa tuyến đường vòa cấp theo quy hoạch cần nguồn kinh phí rấ lớn (khoảng 3000 tỷ đồng). Vì vậy Bộ GTVT đã ưu tiên lập và phê duyệt dự án một số đoạn để có thể sớm đầu tư xây dựng như: đoạn Km57 – Km 64, huyện Quản Bạ (QĐ số 2417/QĐ-BGTVT ngày 18/8/2010); đoạn tránh thị trấn Đồng Văn (QĐ số 570/QĐ-BGTVT ngày 9/3/2010). Những đoạn còn lại được Bộ GTVT chob phép lập dự án đầu tư tại quyết định số 1742/QĐ-BGTVT ngày 25/6/2010, hiện nay cơ bản hoàn thành công tác lập dự án, nhưng do chưa bố trí được nguồn vốn nên chưa phê duyệt. Theo Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đã trình đề xuất với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đưa vào kế hoạch trung hạn. Hiện tại, do chưa bố trí được nguồn vốn nên Bộ GTVT chưa phê duyệt được chủ trương đầu tư. Trước mắt Bộ GTVT đã giao Tổng cục đường bộ bố trí vốn bảo trì đường bộ xử lý các đoạn nguy hiểm, mở cua, hạ dốc, bổ sung biển báo, hộ lan... trong khi chưa triển khai được dự án cải tạo nâng cấp.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 11 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh nghiên cứu, xem xét ban hành chính sách quy định mức hỗ trợ thiên tai đối với cây dược liệu, cây ăn quả vì hiện nay mới có quy định mức hỗ trợ cây lâm nghiệp và cây nông nghiệp
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng và xin ý kiến lần 2 về dự thảo Quyết định thay thế Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg và Quyết định số 49/2012/QĐ-TTg. Trong đó UBND tỉnh đã đề xuất với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ sung chính sách hỗ trợ thiệt hại đối với diện tích cây lâm sản ngoài gỗ, cây dược liệu tại văn bản số 423/UBND-NNTNMT ngày 26/02/2016 theo hai mức:
- Hỗ trợ 5 triệu đồng/ha đối với diện tích thiệt hại từ 30 – 70%
- Hỗ trợ 7,5 triệu đồng/ha với diện tích thiệt hại trên 70%.
Cử tri xã Ma Lé, huyện Đồng Văn:
Đề nghị UBND tỉnh xem xét, ưu tiên bố trí nguồn vốn cho thực hiện dự án di dân tại thôn Sán Trồ, Pó Chư, Khoi Hoang... xã Ma Lé huyện Đồng Văn vì đây là vùng có nguy cơ sạt lở cao.
- Đối với dự án di dân tại thôn Sán Trồ, xã Lũng Cú, được UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt tại Quyết định số 3768/QĐ-UBND ngày 25/11/2010. Tổng mức đầu tư được phê duyệt là 24.495 triệu đồng (trong đó: NSTW là 22.045 triệu đồng); kế hoạch vốn  đã bố trí là 21.800 triệu đồng (Vốn bố trí lũy kế đến 31/12/2004 là 12.800 triệu đồng, vốn ứng 9.000 triệu đồng). Như vậy, so với tổng mức đầu tư được phê duyệt thì số vốn còn thiếu là 2.695 triệu đồng.
Dự án di dân tại thôn Sán Trồ, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn đến nay đã hoàn thành (Vốn NS Trung ương đã bố trí 90% tổng số vốn so với tổng mức đầu tư dự án). Để có cơ sở bố trí tiếp số vốn còn lại cho dự án, đề nghị chủ đầu tư lập hồ sơ quyết toán công trình. Sau khi có quyết định của UBND tỉnh phê duyệt quyết toán công trình mới xem xét bố trí số vốn còn lại.
- Dự án di dân ra khỏi vùng có nguy cơ thiên tại thôn Khai Hoang, xã Ma Lé, được UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt tại Quyết định số 2326/QĐ-UBND ngày 25/10/2011. Tổng mức đầu tư được phê duyệt là 99.165 triệu đồng (trong đó NSTW là 89.249 triệu đồng); kế hoạch vốn đã bố trí là 15.000 triệu đồng (trong đó, năm 2016 là 5.000 triệu đồng). Như vậy, so với khối lượng đã thực hiện đến 31/12/2015 thì dự án không nợ đọng. Kết quả rà soát của Đoàn công tác liên ngành của UBND tỉnh đã đề xuất giải pháp là cắt giảm quy mô (Cắt giảm 34.487 triệu đồng, gồm: Đường trục từ trung tâm xã Ma Lé đi thôn Má Xí A-B lad 30.745 triệu đồng và mặt đường bê tổng nội vùng 3.742 triệu đồng). Như vậy: Sau khi cắt giảm quy mô, tổng mức đầu tư của dự án là 64.678 triệu và vốn còn thiếu so với tổng mức đầu tư 49.678 triệu đồng.
Hiện nay, đoàn công tác liên ngành đang tổng hợp kết quả rà soát các công trình XDCB thực hiện điểm dừng kỹ thuật dự án đầu tư xây dựng để báo cáo UBND tỉnh xem xét cắt giảm quy mô của công trình (như nêu trên). Số vốn còn thiếu của dự án, UBND tỉnh đã có Phương án phân bổ vốn đầu tư trung hạn nguồn ngân sách Trung ương (tại văn bản số 453/UBND-KT ngày 29/02/2016 của UBND tỉnh Hà Giang).
- Dự án di dân tại thôn Khó Trư, xã Phố Cáo, thuộc Chương trình di dân biên giới theo QĐ 570/QĐ-TTG ngày 27/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ "Quy hoạch bố trí ổn định dân cư các xã biên giới Việt – Trung giai đoạn 2012 - 2017". Ngày 26/4/2013, UBND tỉnh đã gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính văn bản số: 130/BC-UBND V/v thẩm định nguồn vốn và phân bổ NSTW cho Dự án. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách hạn hẹp, việc thẩm định nguồn vốn đến nay vẫn chưa có kết quả. Tại văn bản số 117/TB-UBND ngày 31/8/2015 của UBND tỉnh về việc thông báo kết luận của Phó chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Tiến tại cuộc họp lần thứ nhất Ban chỉ đạo 84 của tỉnh, giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư chuyển 14 dự án (trong đó có Dự án di dân tại thôn Khó Trư) thuộc Chương trình theo Quyết định số 570/QĐ-TTg cho Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh để đưa vào Đề án "Xây dựng các điểm dân cư tập trung; bố trí việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới; bảo vệ và phát triển rừng vành đai đến năm 2020..." Hiện nay Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đang tiến hành xây dựng và trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt Đề án.
Cử tri Đồng Văn kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh cân đối, bố trí vốn cho công trình xây dựng kè suối chảy qua thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn thi công dở dang đến nay đã được 4 năm, ảnh hưởng lớn đến nhà cửa của các hộ dân hai bên bờ suối
Dự án kè suối qua thị trấn Đồng Văn huyện Đồng Văn, được UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt tại Quyết định số 1246/QĐ-UBND ngày 24/4/2008. Tổng mức đầu tư được phê duyệt là 55.829 triệu đồng; kế hoạch vốn đã bố trí là 18.000 triệu đồng (bằng nguồn vốn phòng chống lụt bão và vượt thu); lũy kế khối lượng thực hiện đến thời điểm 31/12/2015 là 20.540 triệu đồng. Như vậy so với khối lượng đã thực hiện thì cố vốn còn thiếu (nợ đọng) là 2.540 triệu đồng. 

Qua kết quả rà soát của Đoàn công tác liên ngành theo Quyết định số: 249/QĐ-UBND ngày 19/02/2016 của UBND tỉnh Hà Giang đã đề xuất giải pháp là cắt giảm quy mô (cắt giảm mặt đường bê tông + Rãnh thu nước + bê tông đá xây lòng suối). Dự toán của công trình sau khi cắt giảm quy mô còn là 45.661 triệu đồng, giảm so với tổng mức đầu tư được phê duyệt là 10.168 triệu đồng. Như vậy, so với tổng dự toán công trình sau khi cắt giảm qui mô thì số vốn còn thiếu là 27.661 triệu đồng. Hiện tại, đoàn công tác liên ngành đang tổng hợp kết quả rà soát các công trình XDCB thực hiện điểm dừng kỹ thuật dự án đầu tư xây dựng để báo cáo UBND tỉnh xem xét cắt giảm quy mô của công trình (như nêu trên).
Cử tri huyện Xín Mần kiến nghị:
Đề nghị tỉnh quan tâm, xem xét đầu tư cài tạo, nâng cấp các tuyến đường vành đai biên giới như: Đường từ Trung tâm huyện đi cửa khẩu Xín Mần; đường Cốc Pài – Pà Vầy Sủ; đường Nàn Xỉn – Bản Máy để thuận tiện cho việc giao thương hàng hóa, phát triển kinh tế vùng và đảm bảo an ninh quốc phòng
- Hiện nay, UBND huyện Xín Mần đang tổ chức rải mặt đường bê tông đường Nàn Xỉn – Bản Máy từ Km0 – Km3, do nguồn vốn đầu tư của địa phương còn hạn hẹp nên đoạn còn lại huyện sẽ đưa vào kế hoạch trung hạn để đầu tư vào những năm sau.

- Đường Cốc pài đi Pà Vầy Sủ, huyện Xín Mần đã đề xuất với UBND tỉnh để đăng ký đầu tư bằng nguồn vốn ODA, trong năm 2016 huyện sẽ nâng cấp đoạn từ Km0-Km3 bằng nguồn vốn phân cấp của huyện.

- Tuyến đường từ Km90 (ĐT 177 – Bắc Quang đi Xín Mần) đi cửa khẩu Xín Mần, hiện nay do BQL dự án các công trình trọng điểm của tỉnh làm chủ đầu tư đang tổ chức triển khai thi công.
Cử tri xã Đồng Tiến, Thượng Bình, huyện Bắc Quang kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở Giao thông vận tải (chủ đầu tư), đơn vị thi công tiếp tục thi công tuyến đường xã Ngọc Minh huyện Vị Xuyên đi xã Thượng Bình huyện Bắc Quang thi công từ năm 2008 đến nay chưa hoàn thành.
Dự án đường Ngọc Minh (huyện Vị Xuyên) đi Thượng Bình  (huyện Bắc Quang), được phê duyệt tại Quyết định số 2158/QĐ-UBND ngày 03/8/2007 của UBND tỉnh Hà Giang do Sở Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư. Công trình được triển khai thi công từ tháng 10 năm 2008, đến nay đã hoàn thành thi công xây lắp đoạn từ Km16 – Km26+566. Đoạn từ Km0 – Km16 mới thực hiện đạt 80% khối lượng nền đường và công trình thoát nước.

Trong thời gian từ năm 2012 đến 2015 do khó khăn về vốn nên dự án tạm hoãn thi công (theo Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ) dẫn đến tiến độ thi công xây lắp chậm so với kế hoạch. Năm 2016 dự án được UBND tỉnh giao kế hoạch vốn tại Quyết định số 103/QĐ-UBND ngày 15/01/2016 đồng thời công trình được thi công trở lại theo văn bản số 733/UBND-CNGTXD ngày 24/3/2016 của UBND tỉnh về việc chủ trương cho phép kéo dài thời gian hoàn thành công trình đến ngày 31/12/2017. Căn cứ vào chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở GTVT sẽ tiếp tục tổ chức thi công vào quý II năm 2016.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TẠI KỲ HỌP THỨ 3 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị bố trí đủ nguồn vốn để thực hiện và có kế hoạch tăng nguồn vốn đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đặc biệt là các tỉnh nghèo, tỉnh miền núi, những tỉnh thường xuyên bị bão lũ gây hậu quả nghiêm trọng, những địa phương khó có đủ điều kiện thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng bằng các nguồn vốn khác. Việc lựa chọn thứ tự ưu tiên trong đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nên giao cho các địa phương tự chủ
Thời gian qua Chính phủ luôn quan tâm đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong ưu tiên hơn cho các tỉnh còn nhiều khó khăn, thường chịu ảnh hưởng của thiên tai. Tuy nhiên, do điều kiện ngân sách Nhà nước còn khó khăn vì vậy chưa thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư của các tỉnh.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi nhận kiến nghị của cử tri và sẽ tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định tăng mức hỗ trợ đầu tư từ ngân sách cho các tỉnh nghèo, các tỉnh còn khó khăn về ngân sách.

Đối với việc lựa chọn thứ tự ưu tiên trong đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn là do địa phương quyết định theo đúng phân cấp đầu tư.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Bộ Nội vụ xem xét, quy định cán bộ xã, phường, thị trấn tốt nghiệp Trung cấp lý luận chính trị được xếp lương theo ngạch cán sự, vì thời gian học Trung cấp lý luận chinh trị bằng thời gian học Trung cấp chuyên môn và đáp ứng yêu cầu thực tế về nghiệp vụ, chuyên môn trong tổ chức triển khai, thực hiện công tác đảng, đoàn thể ở cơ sở.
1. Tại Khoàn 1 Điều 5 Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định: Ban tổ chức Trung ương hướng dẫn về tổ chức bộ máy và biên chế, chủ trì, phối hợp với ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, Ban cán sự Đảng Bộ Tài Chính, Học Viên chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương có liên quan quy định về tiêu chuẩn, giá trị văn bằng; hưởng chế độ học tập đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở; bổ sung hướng dẫn chế độ, chính sách đối với Trưởng chính trị tỉnh, thành phố"

Như vậy, việc xác định giá trị văn bằng Trung cấp chính trị của các Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có được công nhận là bằng chuyên môn hay không là do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan quy định và hướng dẫn cụ thể.

2.Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (sau đây viết tắt là Nghị định số 92/2009/NĐ-CP), Bộ Nội vụ nhận được kiến nghị của một số địa phương và ý kiến chất vấn của đại biểu Quốc hội đề nghị Bộ Nội vụ nghiên cứu, xem xét giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường, thị trấn đã tốt nghiệp và được cấp bằng đại học chính trị, trung cấp chính trị hiện chưa được xếp và hưởng lương theo ngạch, bậc như công chức hành chính.

Đây là một vấn đề thực tế đặt ra cần sớm nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, trong thời gian chờ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Bộ Nội vụ đã và đang chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan (Ban tổ chức Trung ương, Văn phòng Trung ương, Ban tuyên giáo Trung ương, Ban dân vận Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp) để nghiên cứu đề xuất phương án vận dụng giải quyết chế độ tiền lương đối với cán bộ cơ sở (trưởng các đoàn thể) có bằng tốt nghiệp Đại học chính trị, trung cấp chính trị nhưng chưa được xếp và hưởng lương theo ngạch, bậc như công chức hành chính. Theo đó, trường hợp có bằng đại học chính trị được xếp, hưởng lương như công chức ngạch chuyên viên; trường hợp có bằng trung cấp chính trị được xếp, hưởng lương như công chức ngạch cán sự
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 2 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Quốc hội xem xét rút ngắn thời gian các kỳ họp Quốc hội để tiết kiệm thời gian, ngân sách
Trong những năm qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã luôn quan tâm chỉ đạo nghiên cứu cải tiến, đổi mới kỳ họp nhằm rút ngắn thời gian nhưng vẫn bảo đảm chất lượng nội dung trình Quốc hội. Thực tế cho thấy tại các kỳ họp gần đây của Quốc hội khóa XIII, thời gian tiến hành đã được rút ngắn (tổng thời gian làm việc của Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất là 14 ngày, tại kỳ họp thứ 2 là 29 ngày, tại kỳ họp thứ 3 là 30 ngày; trong khi mỗi kỳ họp của các khóa trước, Quốc hội thường họp trong hơn 1 tháng, thậm chí có kỳ họp lên tới 45 ngày).

Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trong đó có các giải pháp cụ thể để cải tiến, đổi mới hoạt động của Quốc hội trên các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng, tổ chức kỳ họp Quốc hội, hoạt động tiếp xúc cử tri. Thực hiện tốt các giải pháp này, nhất là tập trung nâng cao chất lượng chuẩn bị các dự án, đề án, báo cáo trình Quốc hội; tăng hoạt động giữa 2 kỳ họp Quốc hội của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; xem xét, thảo luận các báo cáo về kinh tế - xã hội, các dự án, đề án, báo cáo khác tại kỳ họp Quốc hội theo hướng tăng thời gian thảo luận, rút ngắn thời gian trình bày văn bản,... sẽ rút ngắn được thời gian nhưng vẫn bảo đảm chất lượng nội dung trình Quốc hội.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Theo Thông báo số 13-TB/TW, ngày 28-3-2011 của Bộ Chính trị về thực hiện chế độ phụ cấp công tác đảng, đoàn thể chính trị - xã hội đối với cán bộ, công chức, người lao động (hưởng lương từ ngân sách nhà nước) làm việc ở các cơ quan đảng, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội từ cấp Trung ương đến cấp huyện. Đề nghị Bộ chính trị xem xét bổ sung đối tượng cán bộ cán bộ, công chức, người lao động (hưởng lương từ ngân sách nhà nước) làm việc ở các cơ quan đảng, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp xã, phường, thị trấn được hưởng chế độ phụ cấp công tác theo Thông báo số 13-TB/TW, ngày 28-3-2011 của Bộ Chính trị.
Ngày 26-3-2012 Ban Tổ chức Trung ương có Công văn số 2240- CV/BTCTW phúc đáp Công văn số 486/BDN, ngày 14-12-2011 của Ban Dân nguyện, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XIII, với nội dung:

Trong quá trình thực hiện Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW, ngày 01-7-2011 của Ban Tổ chức Trung ương về thực hiện một số chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ quan đảng, đoàn thể chính trị - xã hội theo Thông báo số 13-TB/TW; nhiều địa phương, đơn vị có văn bản gửi các cấp lãnh đạo và Ban Tổ chức Trung ương đề nghị bổ sung đối tượng được hưởng phụ cấp công tác đảng, đoàn thể trong đó có cán bộ cấp xã (bao gồm cả đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã). Nhận thấy đây là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều quy định hiện hành về chế độ chính sách; Ban Tổ chức Trung ương đã có báo cáo và được Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo, như sau:

“Trước mắt giữ nguyên đối tượng được hưởng phụ cấp công tác đảng, đoàn thể quy định tại Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW, ngày 01-7-2011 của Ban Tổ chức Trung ương. Các đề nghị bổ sung đối tượng hưởng phụ cấp này sẽ được đưa vào nghiên cứu trong quá trình xây dựng Đề án Cải cách tổng thể chính sách tiền lương giai đoạn 2012-2020...” (Thông báo số 78-TB/TW, ngày 02-3-2012).

Ban Tổ chức Trung ương đề nghị Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội các địa phương nêu trên chuyển thông tin này đến cử tri. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang thực hiện nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, trong đó có cán bộ, công chức cấp xã.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Trung ương tiếp tục đầu tư, kéo dài Chương trình 135 chuyển sang giai đoạn III để đồng bào dân tộc được hưởng các chế độ, chính sách xoá đói, giảm nghèo.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 153/TB-VPCP ngày 11/5/2009, Nghị quyết số 22/2009/NQ-CP ngày 28/5/2009 của Chính phủ, Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ, Nghị quyết 929/2010/NQ-UBTVQH12, ngày 20/4/2010 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Uỷ ban dân tộc đã phối hợp với các tỉnh đã tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng kinh tế xã hội của 1.848 xã và 3.274 thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc diện đầu tư của chương trình 135 giai đoạn II; đề xuất những vấn đề bức xúc cần giải quyết trong thời gian tới. Trên cơ sở số liệu điều tra, khảo sát, đề xuất của địa phương và báo cáo tổng kết đánh giá 5 năm thực hiện chương trình 135 giai đoạn II, Uỷ ban dân tộc đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc miền núi giai đoạn 2011 – 2015, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định tại tờ trình số 31/TTr-UBDT ngày 25/10/2011 với nội dung cơ bản gồm các phần:
- Hỗ trợ phát triển sản xuất tạo sinh kế bền vững;
- Nâng cao năng lực và tăng cường chất lượng dịch vụ công;
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và dân sinh.
Chương trình dự kiến thực hiện trên địa bàn 50 tỉnh với tổng vốn dự kiến đầu tư, hỗ trợ là 25.861 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Chính phủ trong việc bố trí, sắp xếp phù hợp các chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011 – 2020 trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 – 2020, Chính phủ yêu cầu Uỷ ban dân tộc điều chỉnh lại nội dung Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc miền núi giai đoạn 2011 – 2015 để phù hợp với định hướng chung.
Ngày 18 tháng 12 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2406/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục các Chương trình mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2011 – 2015 trong đó có chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Ngày 21/12/2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành văn bản 8845/BKHDT-TCTT về hướng dẫn thực hiện tăng cường quản lý vốn đầu tư ngân sách Trung ương thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia năm 2012 nêu: “Chương trình 135 giai đoạn III được lồng ghép thành dự án 2: Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn đặc biệt khó khăn”. Các chính sách giảm nghèo khác (trong đó có các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn) đã được quy định trong Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020.
Với các ý kiến chỉ đạo như trên, Uỷ ban dân tộc cho rằng chưa bao quát được hết các vấn đề của các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn cần được giải quyết; đồng thời chưa đáp ứng được mục tiêu Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ là “Cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư”.
Do vậy, Uỷ ban dân tộc tiếp tục khiến nghị với Thủ tướng Chính phủ sớm phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 – 2015 và không thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 – 2015
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ, Bộ tài chính xem xét điều chỉnh chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn (theo Thông tư số 113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 của Bộ tài chính): đối với các tỉnh khó khăn được hỗ trợ 100% từ ngân sách trung ương.
Để thực hiện chính sách hỗ trợ địa phương phát triển ngành nghề nông thôn, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn và Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 hướng dẫn Nghị định trên, trong đó, đối với nguồn kinh phí hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn, tại tiết 2.1 điểm 2 phần II của 113/2006/TT-BTC quy định: “căn cứ quy hoạch tổng thể phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh được cấp thẩm quyền phê duyệt ...., trong đó xác định rõ nguồn kinh phí thực hiện dự án bao gồm: từ ngân sách nhà nước, nguồn huy động từ các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ việc đầu tư dự án và nguồn huy động hợp pháp khác. Trong đó nguồn hỗ trợ từ ngân sách địa phương tối đa là 60% tổng mức đầu tư dự án.... Đối với những tỉnh khó khăn về ngân sách, ngân sách trung ương hỗ trợ một phần trong dự toán ngân sách hàng năm để thực hiện, mức hỗ trợ do Chính phủ trình Quốc hội quyết định theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước”. Từ năm 2007 – 2012 ngân sách trung ương hỗ trợ cho tỉnh thực hiện chính sách phát triển ngành nghề nông thôn trong chương trình hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội  các vùng theo Nghị quyết của Bộ Chính trị với tổng số hỗ trợ chương trình là 638,4 tỷ đồng (năm 2007: 50,6 tỷ đồng, năm 2008: 68,7 tỷ đồng, năm 2009: 117,1 tỷ đồng, năm 2010: 98 tỷ đồng, năm 2011: 131 tỷ đồng, năm 2012: 173 tỷ đồng).
Ngoài ra, để giúp địa phương miền núi, vùng cao phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên cho các tỉnh miền núi vùng cao (trong đó có tỉnh Hà Giang) như: Nghị quyết 30a/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo; Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; Chương trình giống cây trồng, vật nuôi, giống thuỷ sản đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt – Trung; chương trình kiên cố hoá kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn... Để thực hiện các chủ trương, chính sách nếu trên hàng năm ngân sách trung ương đã bố trí hỗ trợ có mục tiêu và cho vay tín dụng ưu đãi để tỉnh thực hiện (như năm 2011 bố trí 700,6 tỷ đồng, năm 2012 bố trí 871,5 tỷ). Vì vậy, đề nghị tỉnh chủ động sử dụng nguồn ngân sách trung ương đã hỗ trợ, nguồn ngân sách địa phương và các nguồn tài chính hợp pháp để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn theo quy định.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Đài truyền hình Việt Nam không nên phát sóng chương trình chiếu phim (kênh VTV2) lúc 19 giờ hàng ngày trùng vào thời gian phát sóng chương trình thời sự (kênh VTV1); gia đình ở vùng sâu, vùng xa chỉ có 01 tivi khó xem được chương trình thời sự.
Với vai trò là Đài truyền hình Quốc gia, thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, phấp luật của Nhà nước và đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí của nhân dân, Đài THVN hiện nay đang phát sóng 6 kênh quốc gia (VTV1,2,3,4,5,6), 6 kênh khu vực và hàng trăm kênh truyền hình trả tiền. Mỗi kênh có tiêu trí, nội dung khác nhau, nhằm phục vụ đa dạng nhu cầu thông tin, giải trí, giáo dục ... của nhân dân.
Nhận thức sự tác động và hiệu quả thông tin đối với xã hội thông qua các bản tin thời sự (nhất là chương trình thời sự 19h), nên ngoài việc phát sóng trên kênh VTV1, hệ thống truyền hình cáp và truyền hình số vệ tinh, các Đài PTTH địa phương đều tiếp sóng nguyên vẹn chương trình thời sự 19h trên kênh truyền hình địa phương. Bên cạnh đó để đáp ứng yêu cầu của khán giả không có điều kiện theo dõi chương trình thời sự vào khung 19h, Đài THVN còn bố trí phát lại vào khung 22h00 trên kênh VTV2, vì vậy, việc kênh VTV2 không tiếp sóng bản tin thời sự 16h, không ảnh hưởng đến việc theo dõi của khán giả cả nước.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 3 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Nhiều cử tri đang công tác trong ngành giáo dục cho rằng, hiện chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý ngành giáo dục (phụ cấp đứng lớp và phụ cấp thâm niên) còn bất cập, thiếu công bằng. Từ quy định bất cập này đã xảy ra tình trạng các sở, phòng giáo dục không tuyển được cán bộ có kinh nghiệm trong ngành sang làm cán bộ quản lý. Cử tri kiến nghị Chính phủ và các Bộ, ngành chức năng cần nghiên cứu và có cơ chế đặc thù cho đội ngũ công chức nguyên là giáo viên sang công tác tại các đơn vị sở, phòng giáo dục và đào tạo; bổ sung chế độ đối với cán bộ không trực tiếp làm công tác giảng dạy theo Nghị định 54/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo. Không thể xem họ như những cán bộ công chức hành chính nhà nước khác được vì thực tế họ không phải là công chức tuyển dụng mới như các ngành mà hầu hết là giáo viên giỏi từ các trường lên. Họ tuy không đứng lớp nhưng đang làm công tác chỉ đạo, hướng dẫn người dạy nên thực tế họ vẫn như giáo viên đứng lớp gián tiếp.
Để khuyến khích thu hút đội ngũ giáo viên giỏi về công tác ở những cơ quan quản lý giáo dục, đề nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét có chế độ thay thế cho chuyên viên, cán bộ phòng giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo, đồng thời giải quyết chế độ phụ cấp thâm niên.
Nhằm thực hiện chính sách, khuyến khích nhà giáo giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập được điều động làm công tác quản lý giáo dục, hỗ trợ họ khắc phục khó khăn trong thời gian đầu thực hiện quyết định điều động, ngày 05/8/2011 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 42/2011/QĐ-TTg về Bảo lưu chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo được điều động làm công tác quản lý giáo dục. Điều 2, Quyết định số 42/2011/QĐ-TTg, quy định: “Mức phụ cấp ưu đãi được bảo lưu là mức phụ cấp ưu đãi mà nhà giáo được hưởng ở cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập trước khi được điều động về công tác tại phòng giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo”. Điều 3, Quyết định số 42/2011/QĐ-TTg, quy định: “Thời gian hưởng bảo lưu chế độ phụ cấp ưu đãi tại quyết định này là thời gian thực tế nhà giáo làm việc tại phòng giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo tối đa là 36 tháng”.
Ngày 29/5/2012 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 23-KL/TW về “Một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020”. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, xác định rõ các ngành nghề đặc thù, trên cơ sở đó xây dựng, hoàn thiện các chế độ trợ cấp, phụ cấp để bảo đảm công bằng, hợp lý, nhất là các chế độ phụ cấp theo nghề (thâm niên, ưu đãi, trách nhiệm theo nghề, công vụ) trình Chính phủ xem xét, quyết định. 
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét có chính sách hỗ trợ thai sản đặc thù cho phụ nữ thuộc hộ nghèo khi mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Vì đây là bộ phận yếu thế nhất trong xã hội, chưa được hỗ trợ gì, trong khi đó người lao động thất nghiệp ở các doanh nghiệp vẫn được hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) và các văn bản hướng dẫn thực hiện thì người thuộc hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được ngân sách Nhà nước hỗ trợ 100% chi phí đóng bảo hiểm y tế. Các đối tượng trên khi sử dụng dịch vụ y tế, trong đó có khám thai, sinh đẻ cũng như sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao (trừ thụ tinh trong ống nghiệm) chỉ phải đóng 5% chi phí khám chữa bệnh, số còn lại 95% được BHYT chi trả. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy phần lớn phụ nữ nghèo, nhất là phụ nữ nghèo vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số gặp rất nhiều khó khăn khi sinh con, nhất là thiếu thốn về kinh tế. Để hỗ trợ thêm về kinh tế, tạo điều kiện cho bà mẹ phục hồi sức khỏe và nuôi con tốt hơn trong những tháng đầu sau sinh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ 01 lần cho phụ nữ nghèo khi sinh con đúng chính sách dân số. Theo kế hoạch sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định vào tháng 11/2012.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Hiện các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang đang thụ lý một số lượng lớn các vụ việc thi hành án là người nước ngoài (chủ yếu là người Trung Quốc). Nhưng sau khi chấp hành án phạt tù xong trở về nước thì cơ quan thi hành án dân sự không thể thi hành được vì chưa có văn bản quy định hướng dẫn quy trình, thủ tục thực hiện. Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành đối với loại án này.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Hiện các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang đang thụ lý một số lượng lớn các vụ việc thi hành án là người nước ngoài (chủ yếu là người Trung Quốc). Nhưng sau khi chấp hành án phạt tù xong trở về nước thì cơ quan thi hành án dân sự không thể thi hành được vì chưa có văn bản quy định hướng dẫn quy trình, thủ tục thực hiện. Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành đối với loại án này.
Trả lời:
Người nước ngoài sau khi chấp hành xong án phạt tù nhưng chưa thi hành xong nghĩa vụ dân sự, Điều 9 Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã quy định cụ thể như sau:
“1. Người nước ngoài có thể bị tạm hoãn xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
c) Đang có nghĩa vụ thi hành bản án dân sự, kinh tế, lao động;
d) Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính.
2. Những trường hợp quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này, nếu có bảo lãnh bằng tiền, tài sản hoặc có biện pháp khác để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đó theo quy định của pháp luật Việt Nam, thì được xuất cảnh”.
Do đó, nếu người nước ngoài chưa thi hành xong nghĩa vụ dân sự, chưa được bảo lãnh hoặc có biện pháp khác để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự mà để được trở về nước là trái với quy định của pháp luật.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ kiểm tra thông tin Cử tri nêu và chỉ đạo cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang giải quyết đúng pháp luật.
Cơ quan Thi hành án dân sự trước hết phải phối hợp chặt chẽ với Trại giam, Trại tạm giam để theo dõi các trường hợp này và đảm bảo thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết trước khi cho người nước ngoài xuất cảnh về nước.
Mặt khác, đối với các trường hợp đã chấp hành án phạt tù xong và trở về nước, phần nghĩa vụ dân sự còn lại chưa được thực hiện, pháp luật hiện hành đã có quy định để giải quyết thông qua tương trợ tư pháp. Vấn đề này được quy định cụ thể tại Điều 181 của Luật Thi hành án dân sự .
Theo đó, cơ quan Thi hành án dân sự cần lập hồ sơ ủy thác tư pháp với ngôn ngữ phù hợp theo quy định tại Điều 11 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp. Hồ sơ ủy thác tư pháp được gửi về Bộ Tư pháp để yêu cầu tương trợ tư pháp.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ 3 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện và tăng mức hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định số 167/QĐ-TTg, Quyết định 67/QĐ –TTg và 74/QĐ-TTg để đảm bảo nơi cư trú an toàn trong điều kiện bình thương và mức hỗ trợ còn quá thấp.
Việc hỗ trợ nhả ở cho các hộ gia đình nghèo có khó khắc về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian vừa qua đã thực hiện được trên 510.000 hộ. Tuy nhiên theo báo cáo sơ bộ của các địa phương cả nước thì hiện nay vẫn còn trên 500.000 hộ theo tiêu chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015 có khó khăn về nhà ở cần được hỗ trợ để đảm bảo cho họ có cuộc sống an toàn, ổn định. Do vậy, việc cử tri các tỉnh kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục thực hiện hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở là cấn thiết.

Về mức hỗ trợ: Theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì nhứng hộ dân thuộc diện đối tượng Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 6 triệu đồng/hộ và những hộ dân thuộc diện đối tượng đang cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn thì Ngân sách Trung ương hỗ trợ 07 triệu đồng/hộ để xây dựng nhà ở; các địa phương có trách nhiệm hỗ trợ thêm từ Ngân sách địa phương với mức không thấp hơn 20% so với ngân sách Trung ương hỗ trợ. Như vậy, mỗi hộ dân được Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu từ 7,2 – 8,4 triệu đồng/hộ, đồng thời mỗi hộ dân được vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách xã hội với mức 8 triệu đồng/hộ. Ngoài mức hỗ trợ và mức cho vay theo quy định, các địa phương đã tích cực vận động sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, cũng như sự giúp đỡ của anh em, dòng họ và sự đóng góp của các hộ gia đình, do đó hầu hết nhà ở được hỗ trợ đều đảm bảo và vượt quy định về diện tích và chất lượng (diện tích tối thiểu 24m2, nhả ở đảm bảo "3 cứng": Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên).

Tuy nhiên, hiện nay, giá vật liệu xây dựng đã tăng khá cao, vì vậy với mức hỗ trợ nói trên sẽ rất khó khăn để có thể xây dựng được căn nhà đảm bảo diện tích và chất lượng như quy định nói trên, cũng như ý kiến cử tri đã nêu.

Để tiếp tục thực hiện hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ  xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các địa phương nghiên cứu, xây dựng Đề án và cơ chế, chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011 – 2015. Hiện nay, Đề án và dự thảo cơ chế, chính sách hỗ trợ nhà ở, Bộ xây dựng đã trình Thủ tướng Chính Phủ xem xét, quyết định, theo đó, mức hỗ trợ có đề xuất tăng lên để phù hợp với giá cả vật liệu xây dựng, đảm bảo yêu cầu mức hỗ trợ của Nhà nước cùng với các nguồn vốn huy động khác, các hộ nghèo có thể xây dựng được căn nhà có diện tích tối thiểu 24m2, nhà ở đảm bảo "3 cứng": Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà 10 năm trở lên như quy định tại Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, đủ điều kiện tối thiểu người dân có nơi cư trú an toàn trong điều kiện bình thường như ý kiến của cử tri.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
1. Trong các tỉnh miền núi phía đông bắc: các chương trình, dự án đầu tư cho tỉnh Hà Giang nguồn vốn với mức đầu tư thấp nhất khu vực. Đề nghị Bộ tham mưu với Chính phủ xem xét, quyết định cho tỉnh Hà Giang được hướng cơ chế đặc thù; thu ngân sách địa phương để lại 100%, tỉnh chủ động cấn đối đầu tư, thời gian thí điểm thực hiện trong một nhiệm kỳ 5 năm.

2. Đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức hỗ trợ tiền dầu thắp sáng cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới (theo Quyết định 289/QĐ-TTg mức hỗ trợ bằng tiền tương đương 5 lít dầu hỏa/năm) tương đương với mức hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo (theo Quyết định 268/QĐ-TTg mức hỗ trợ là 30.000 đồng/tháng), để tránh sự thiệt thòi giữa các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ đồng bào dân tộc thiểu số chưa được sử dụng điện lưới.
1. Việc phân bổ vốn đầu tư cho các địa phương thực hiện theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015, trong đó mức vốn đầu tư phân bổ cho các địa phương khó khăn, trong đó tỉnh Hà Giang được căn cứ theo các nguyên tắc,  tiêu chí như dân số và số người dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo... Mức vốn đầu tư hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương được xác định đối với từng chương trình, mục tiêu cụ thể.

Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, thu ngân sách nhà nước của tỉnh Hà Giang mới chỉ đáp ứng một phần chi cân đối ngân sách địa phương và tỉnh Hà Giang được hưởng cơ bản số thu nội địa trên địa bàn (trừ một số khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% chiếm tỷ lệ rất nhỏ như: thu phí, lệ phí của trung ương, thu khác của doanh nghiệp nhà nước trung ương và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài), đồng thời nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương. Đồng thời, hàng năm, thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về nguồn kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ để lại một phần số 50% tăng thu ngân sách địa phương để thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, nhiệm vụ cấp bách phát sinh và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong đó có tỉnh Hà Giang (tăng thu ngân sách địa phương năm 2011, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ để lại 100% cho địa phương là 38,588 triệu đồng).

Vì vậy, đối với đề nghị tỉnh Hà Giang về để lại 100% thu ngân sách địa phương cho tỉnh chủ động cân đối đầu tư, đề nghị tỉnh thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.

2. Ngày 18/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân, trên cơ sở đó. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 37/2008/TT-BTC hướng dẫn chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới được hỗ trợ bằng tiến tương đương 5 lít dầu hỏa/năm để thắp sáng

Đồng thời, để hỗ trợ hộ nghèo có kinh phí để thắp sáng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo với mức hỗ trợ duyệt theo chuẩn nghèo quốc gia quy định tại Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 đều được hỗ trợ trực tiếp 30.000 đồng/hộ/tháng.
         
Mức hỗ trợ trên cơ bản đã đảm bảo nhu cầu thắp sáng của hộ nghèo và đáp ứng kiến nghị cử tri đề xuất.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; quá trình thực hiện Nghị quyết hơn một năm đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước đã có sự tăng trưởng trở lại.
Tuy nhiên việc cắt giảm đầu tư công, nhất là ở tỉnh Hà Giang, các huyện đặc biệt khó khăn đã làm cho tình hình phát triển kinh tế, an sinh xã hội giảm sút, nhân dân thiếu việc làm, sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, các công trình thi công dở dang bị ảnh hưởng về chất lượng… Đề nghị Chính phủ xem xét ban hành cơ chế chính sách phù hợp, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo nhiều việc làm cho nhân dân; đối với các huyện đặc biệt khó khăn thuộc chương trình Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ cần được đáp ứng 100% nguồn vốn đầu tư hàng năm và tăng mức đầu tư để đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng tạo cơ hội cho nhân dân phát triển sản xuất, kinh doanh.
Trước tình hình lạm phát tăng cao trong năm 2010 – 2011, Chính phủ đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Nội dung chủ yếu là tăng cường hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, các công trình khởi công mới nếu không thực sự cần thiết thì sẽ tạm dừng, chưa khởi công. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập chung cho các dự án hoàn thành, chuyển tiếp nhằm sớm đưa dự án vào sử dụng, phát huy tác dụng. Chính phủ không chủ trương cắt giảm nguồn vốn đầu tư mà chỉ điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả nguồn vốn, trong đó tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, chưa thể đáp ứng được ngay nhu cầu đầu tư các huyện nghèo, xã nghèo. Việc tính toán phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương được thực hiện theo quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011 – 2015.
Đối với các huyện nghèo, trong thời gian tới căn cứ khả năng nguồn lực huy động, ngân sách Trung ương sẽ tiếp tục hỗ trợ đầu tư nhằm hỗ trợ cho đồng bào khu vực này, đồng thời cũng xem xét bổ sung thêm một số huyện được hưởng cơ chế hỗ trợ như các huyện nghèo nhằm mở rộng hơn nữa diện đối tượng thụ hưởng chính sách.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị bổ sung đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, hợp đồng lao động, người hoạt động không chuyên trách và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác tại cấp huyện, thị trấn ở các huyện đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP thì đều được hưởng chế độ phụ cấp thu hút theo Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2012
- “Theo Quyết định 116/QĐ-TTg thì cán bộ, công chức được hưởng 70% lương nhưng cán bộ không là công chức không được hưởng, đề nghị xem xét cho cán bộ không phải là công chức được hưởng”.
- “Đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2011) cho phù hợp vì quy định thời hạn hưởng còn bất cập (những người có thời gian công tác trước ngày 01 tháng 3 năm 2011 thì không được hưởng)”.
- “Đề nghị Bộ Nội vụ xem xét, sửa đổi Thông tư liên tịch số 08/2011/TTLT-BNV-BTC ngày 31 tháng 8 năm 2011 theo hướng nên quy định đối tượng là lao động hợp đồng tại xã, phường, thị trấn được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% tiền lương nhằm đảm bảo sự công bằng trong chế độ”.
- Căn cứ quy định tại Khoản 2 Mục III Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với huyện nghèo thì chỉ các xã thuộc huyện nghèo được hưởng chính sách quy định đối với xã đặc biệt khó khăn. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác tại các thị trấn thuộc các huyện nghèo không áp dụng chính sách đối với vùng đặc biệt khó khăn quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP.
- Đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp quy định tại Điều 14 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; đồng thời Luật Cán bộ, công chức năm 2008 không điều chỉnh đối với những người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động ở cấp xã. Do vậy các đối tượng là hợp đồng lao động ở cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng không thuộc phạm vi, đối tượng áp dụng chính sách quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ.
- Do Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2011, vì vậy các trường hợp có thời gian công tác trước ngày 01 tháng 3 năm 2011 không thuộc đối tượng áp dụng của Nghị định số 116/2010/NĐ-CP.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Trong các tỉnh miền núi phía đông bắc: các chương trình, dự án đầu tư cho tỉnh Hà Giang nguồn vốn với mức đầu tư thấp nhất khu vực. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét quyết định cho tỉnh Hà Giang được hưởng cơ chế đặc thù: Thu ngân sách địa phương để lại 100%, tỉnh chủ động cân đối đầu tư, thời gian thí điểm thực hiện trong một nhiệm kỳ 5 năm.
Việc phân bổ vốn đầu tư cho các địa phương thực hiện theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015, trong đó mức vốn đầu tư phân bổ cho các địa phương khó khăn, trong đó có tỉnh Hà Giang được căn cứ theo các nguyên tắc, tiêu chí như dân số và số người dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo,... Mức vốn đầu tư hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương được xác định đối với từng Chương trình, mục tiêu cụ thể.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, thu ngân sách nhà nước của tỉnh Hà Giang mới chỉ đáp ứng được một phần chi cân đối ngân sách địa phương và tỉnh Hà Giang được hưởng cơ bản số thu nội địa trên địa bàn (trừ một số khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% chiếm tỷ lệ rất nhỏ như: thu phí, lệ phí của Trung ương, thu khác của doanh nghiệp nhà nước trung ương và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài), đồng thời nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương. Đồng thời, hàng năm, thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về nguồn kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ để lại một phần số 50% tăng thu ngân sách địa phương để thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, nhiệm vụ cấp bách phát sinh và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong đó có tỉnh Hà Giang (tăng thu ngân sách địa phương năm 2011, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ để lại 100% cho địa phương là 38.588 triệu đồng).
Vì vậy, đối với đề nghị của tỉnh Hà Giang về để lại 100% thu ngân sách địa phương cho tỉnh chủ động cân đối đầu tư, đề nghị tỉnh thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Mức phụ cấp của đối với cộng tác viên Dân số KHHGĐ xã hiện nay 200.000đ/ tháng, cộng tác viên thôn bản là 40.000đ/ tháng, không đảm bảo cho hoạt động, nhất là cán bộ ở các xã đặc biệt khó khăn, không được hưởng biên chế trong cơ cấu biên chế của xã. Đề nghị Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ương xem xét nâng mức phụ cấp cho cộng tác viên dân số xã và thôn bản.
Đội ngũ làm Cộng tác viên (CTV) Dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) được hình thành và đi vào hoạt động từ năm 1993; tính đến ngày 31/12/2012 tổng số CTV trên toàn quốc là 174.208 người đang tham gia hoạt động tại các tổ dân phố, thôn, ấp, phum, sóc, bản, làng. Đội ngũ CTV là những người gần dân nhất, là mắt xích cuối cùng, quan trọng nhất của bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ ở cơ sở, họ có những đóng góp hết sức quan trọng vào thành công của công tác DS-KHHGĐ trong những năm vừa qua.
Đến thời điểm hiện nay, CTV dân số được hưởng chế độ phụ cấp hằng tháng  theo Thông tư liên tịch số 32/2008/TTLT-BTC-BYT của Bộ Tài chính và Bộ Y tế về hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2006-2010 theo định mức là 50.000 đồng/người/tháng và một số tỉnh thuộc Đề án 52 được hưởng chế độ thù lao theo Thông tư số 233/2009/TTLT-BTC-BYT ngày 09/12/2009 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Đề án 52 là 100.000 đồng/người/tháng. Ngoài ngân sách Trung ương chi trả phụ cấp hằng tháng còn có 40 tỉnh trên cả nước dùng nguồn ngân sách địa phương để hỗ trợ thêm cho đội ngũ CTV dân số trong đó từ 20.000đ – 50.000 có 18 tỉnh; từ 60.000đ – 100.000đ có 13 tỉnh;  110.000đ  đến 250.000đ/người/tháng có 9 tỉnh; một số tỉnh quy định mức phụ cấp theo hệ số 0,2 mức lương tối thiểu như: Lai Châu, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Kiên Giang. Vĩnh Long hưởng 0,3 mức lương tối thiểu, nhiều địa phương hằng năm đã có những chính sách khen thưởng động viên kịp thời đối với CTV và cụm dân cư có thành tích xuất sắc trong công tác DS-KHHGĐ.  Hiện nay Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Thông tư liên tịch hướng dấn mức phụ cấp cho cán bộ DS-KHHGĐ mức 100.000đ/người/tháng.
Đối với chính sách khen thưởng đối với địa phương và CTV dân số: trong thời gian qua, để ghi nhận công lao của đội ngũ CTV, mỗi năm Bộ Y tế theo thẩm quyền đã thực hiện việc tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp dân số cho hàng chục ngàn CTV đã có thành tích đóng góp vào sự nghiệp DS-KHHGĐ. Thực hiện phát động phong trào thi đua hằng năm và khen thưởng với các hình thức như tặng Cờ thi đua, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế, đề nghị tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ đối với các địa phương đạt thành tích cao. Bộ Y tế cũng đã bố trí kinh phí từ nguồn của Chương trình Mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ và giao về cho địa phương dành để khen thưởng đối với cá nhân, cộng đồng thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ. Nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành các chính sách khen thưởng tại cộng đồng bằng nguồn ngân sách địa phương đối với CTV và cụm dân cư, xã, phường có thành tích xuất sắc trong thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
Trong thời gian tới Bộ Y tế sẽ có lộ trình, từng bước trình Chính phủ hằng năm có những chính sách khen, thưởng động viên kịp thời những tấm gương CTV dân số và những địa phương đạt thành tích xuất sắc trong công tác DS-KHHGĐ.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Hiện nay tình trạng lao động phổ thông ở các huyện biên giới của tỉnh Hà Giang sang các huyện giáp biên giới của Trung Quốc làm thuê, số lượng lớn (năm 2011 và 4 tháng đầu năm 2012 là 11.397 lượt người), công tác quản lý gặp rất nhiều khó khăn, rủi do thiệt hại của người lao động xảy ra nhiều.
Đề nghị Chính phủ xem xét có chủ trương chính sách đặc thù riêng, đầu tư hỗ trợ cho các xã biên giới trong hoạt động liên quan đến di cư tự do qua biên giới tìm việc làm, phòng chống hoạt động buôn bán người và các loại tội phạm khác; xem xét thành lập Trung tâm Hỗ trợ dịch vụ, truyền thông - Lao động việc làm ở các huyện biên giới nhằm cung cấp thông tin, hỗ trợ nhân dân phòng ngừa và đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, đồng thời hướng dẫn và tổ chức quản lý người dân sang bên kia biên giới lao động, làm thuê.
Trong những năm qua, do việc qua lại qua biên giới tương đối dễ dàng, việc kinh doanh qua biên giới cũng được đẩy mạnh nên số lượng công dân Việt Nam sang Trung Quốc và công dân Trung Quốc sang Việt Nam để kinh doanh, du lịch rất lớn. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 2012 có trên 8.000 lượt người lao động của tỉnh Hà Giang đi tự do qua biên giới sang Trung Quốc tìm việc làm. Tuy nhiên, gần đây đã nổi lên vấn đề người lao động hai nước sang làm việc tại mỗi bên không theo khuôn khổ pháp luật, chủ yếu là làm việc tại khu vực biên giới tiếp giáp giữa hai nước. Đã xảy ra tình trạng lao động Việt Nam sang làm việc tại các tỉnh của Trung Quốc giáp biên giới với Việt Nam với các điều kiện không đảm bảo, nhiều người bị đẩy hoặc trục xuất về Việt Nam, gây thiệt hại cho người lao động.
Trước tình hình trên, năm 2011, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã thành lập đoàn khảo sát tại các huyện, các xã vùng biên giới thuộc 4 tỉnh biên giới là: Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh để nắm tình hình người lao động dịch chuyển tự do tại vùng biên giới phía bắc. Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tỉnh Hà Giang đàm phán, ký kết thảo thuận hợp tác lao động với các địa phương phía Trung Quốc có nhu cầu sử dụng lao động Việt Nam, thí điểm đưa lao động các huyện biên giới của tỉnh sang làm việc tại địa phương giáp biên giới với Việt Nam của Trung Quốc. Sau thời gian thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá và nhân rộng mô hình trên đối với tất cả các tỉnh biên giới có chung đường biên giới với Trung Quốc.
 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị UBND tỉnh Hà Giang chỉ đạo các cơ quan chức năng, ban ngành địa phương tăng cường công tác tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện việc xuất nhập cảnh theo quy định.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ sớm phê duyệt đầu tư dự án Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn và sớm phê duyệt dự án nước sinh hoạt hồ treo 4 huyện vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang, nhằm tạo công ăn việc làm và giải quyết nhu cầu nước sinh hoạt cho trên 17.000 hộ dân ở các huyện vùng cao, thôn bản vùng sâu, vùng xa của tỉnh
1. Về Quy hoạch tổng thể Công viên đá địa chất toàn cầu - Cao nguyên đá Đồng Văn:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có 02 công văn góp ý về nội dung cần chỉnh sửa của Quy hoạch nói trên. Tuy nhiên đến nay các nội dung trên vẫn chưa được chỉnh sửa, đặc biệt là các ý kiến về phân kỳ đầu tư và xác định nguồn vốn thực hiện Quy hoạch; danh mục dự án đầu tư chưa rõ ràng về mức độ ưu tiên và căn cứ dự toán nhu cầu vốn (trong tài liệu Quy hoạch được cung cấp).
Về các nội dung chuyên môn của Quy hoạch: Việc xây dựng Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) theo quy định hiện hành chưa được thực hiện hoặc chưa có báo cáo đầy đủ. Hơn nữa, nếu triển khai Quy hoạch sẽ có tác động lớn đến môi trường tự nhiên nên ngoài việc thực hiện ĐMC còn cần có các dự án bảo vệ môi trường thành phần. Quy hoạch chưa được kết nối với các hoạt động bảo tồn và bảo tàng địa chất của Tổng cục Địa chất, khoáng sản Việt Nam và của cả nước. Các hoạt động duy trì giá trị nguyên thủy của di sản tự nhiên của Công viên đá địa chất toàn cầu là mục tiêu quan trọng nhất của Quy hoạch nhưng chưa thể hiện rõ ưu tiên đặc biệt. Nội dung duy trì và hoàn thiện Hồ sơ đạt danh hiệu Công viên đá địa chất toàn cầu theo quy định của Trung tâm di sản UNESCO để phục vụ theo dõi và báo cáo định kỳ việc bảo tồn và phát huy giá trị chưa được bổ sung, hoàn thiện.
2. Về Đề án hồ chứa nước sinh hoạt 4 huyện vùng cao, núi đá:
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số 6100/BKHĐT-KTNN ngày 14/8/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1435/TTg-KTN ngày 18/9/2012 chấp nhận chủ trương đầu tư Đề án và giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan căn cứ khả năng cân đối vốn ngân sách Trung ương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã bố trí kế hoạch năm 2013 là 108 tỷ đồng để thực hiện Đề án. Tuy nhiên, do các dự án hồ chứa nước sinh hoạt thuộc Đề án là những dự án khởi công mới, đến nay chưa được thực hiện thẩm định nguồn vốn và phần vốn ngân sách trung ương theo quy định tại Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/201 của Thủ tướng Chính phủ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản số 10304/BKHĐT-KTNN ngày 12/12/2012 đề nghị UBND tỉnh Hà Giang chủ động phân bổ 108 tỷ đồng trong kế hoạch năm 2013 nêu trên, trong đó ưu tiên cho các dự án đang đầu tư dở dang để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng, phục vụ sản xuất. Đối với các dự án khởi công mới, đề nghị tỉnh hoàn thiện các thủ tục theo đúng quy định.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ nâng mức hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở lên 20 đến 30 triệu đồng/hộ để đảm bảo nhà ở ổn định, an toàn theo quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở.
Việc hỗ trợ nhà ở cho các hộ gia đình nghèo có khó khăn về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian vừa qua đã thực hiện được trên 510.000 hộ. Tuy nhiên, theo báo cáo sơ bộ của các địa phương cả nước thì hiện nay vẫn còn trên 500.000 hộ theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 có khó khăn về nhà ở cần được hỗ trợ để đảm bảo cho họ có cuộc sống an toàn, ổn định. Do vậy, việc cử tri các tỉnh kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục thực hiện hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở là cần thiết.
Về mức hỗ trợ: Theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì những hộ dân thuộc diện đối tượng được Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 6 triệu đồng/hộ và những hộ dân thuộc diện đối tượng đang cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn thì Ngân sách Trung ương hỗ trợ 07 triệu đồng/hộ để xây dựng nhà ở; các địa phương có trách nhiệm hỗ trợ thêm từ Ngân sách địa phương với mức không thấp hơn 20% so với mức Ngân sách Trung ương hỗ trợ. Như vậy, mỗi hộ dân được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ tối thiểu từ 7,2 – 8,4 triệu đồng/hộ; đồng thời, mỗi hộ dân được vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội với mức 8 triệu đồng/hộ. Ngoài mức hỗ trợ và mức vay theo quy định, các địa phương đã tích cực vận động sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, cũng như sự giúp đỡ của anh em, dòng họ và sự đóng góp của các hộ gia đình, do đó hầu hết nhà ở được hỗ trợ đều đảm bảo và vượt quy định về diện tích và chất lượng (diện tích tối thiểu 24 m2, nhà ở đảm bảo “3 cứng”: Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên).
Tuy nhiên, hiện nay, giá vật liệu xây dựng đã tăng khá cao, vì vậy với mức hỗ trợ nói trên sẽ rất khó khăn để có thể xây dựng được căn nhà đảm bảo diện tích và chất lượng như quy định nói trên, đúng như ý kiến cử tri đã nêu.
Để tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương nghiên cứu, xây dựng Đề án và cơ chế, chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011- 2015. Hiện nay, Đề án và dự thảo cơ chế, chính sách hỗ trợ nhà ở, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định, theo đó, mức hỗ trợ có đề xuất tăng lên để phù hợp với giá cả vật liệu xây dựng, đảm bảo yêu cầu mức hỗ trợ của Nhà nước cùng với với các nguồn vốn huy động khác, các hộ nghèo có thể xây dựng được căn nhà có diện tích tối thiểu 24m2, nhà ở đảm bảo “3 cứng”: Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên như quy định tại Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, đủ điều kiện tối thiểu để người dân có nơi cư trú an toàn trong điều kiện bình thường như ý kiến của cử tri.
Riêng đối với Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày 09/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ chỉ qui định về chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2008 – 2010, không quy định hỗ trợ về nhà ở.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ NHẤT – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang:
Đề nghị Chính phủ, Bộ quốc phòng tiếp tục đầu tư vốn đẩy nhanh tiến độ làm đường tuần tra biên giới, đường vành đai biên giới, rà phá bom mìn vật cản hoàn thành trước năm 2012 (hiện nay toàn tỉnh còn 1.980 ha chưa ra phá bom mìn, vật cản), để tỉnh có quỹ đất bố trí, sắp xếp ổn định dân cư và phát triển sản xuất.
Theo Quyết định số 313/QĐ-TTg ngày 14/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án quy hoạch xây dựng đường tuần tra biên giới (TTBG) đất liền giai đoạn 2006 – 2010 và những năm tiếp theo; tổng chiều dài tuyến đường TTBG được quy hoạch đầu tư xây dựng trên toàn quốc là 10.196 km; trong đó, triển khai xây dựng giai đoạn 2006 – 2010 là 2.070 km. Thực hiện đề án này, những năm qua, với sự nổ lực của các đơn vị trong Quân đội và sự giúp đỡ của các điạ phương, Bộ Quốc phòng đã triển khai xây dựng 2.016 km đường TTBG trên các địa bàn trọng điểm như: Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nghệ An – Thanh Hoá và các tỉnh Biên giới Việt – Trung; trên địa bàn tỉnh Hà Giang, Bộ Quốc phòng đã triển khai thực hiện 4 dự án xây dựng đường TTBG và vành đai biên giới, tổng vốn đầu tư trên 120 tỷ đồng.

Để triển khai đề án trong những năm tiếp theo, Bộ Quốc phòng đã hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đường TTBG giai đoạn 2011 – 2015 và báo cáo Thủ tường Chính phủ xem xét, phê duyệt; trong đó, dự kiến đầu tư xây dựng mới tuyến đường TTBG trên địa bàn tỉnh Hà Giang khoảng 70 km. Sau khi đề án quy hoạch chi tiết được Thủ tường Chính phủ phê duyệt; Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Hà Giang sớm tổ chức triển khai thực hiện, góp phần phục vụ tốt cho nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư và đẩy mạnh sản xuất của nhân dân địa phương trong khu vực.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Tỉnh Hà Giang có trên 274 km đường biên giới, với 7/11 huyện, thành phố là huyện biên giới, địa hình hiểm trở phức tạp, đường tuần tra biên giới hầu như chưa có, bình quân mỗi Đồn biên phòng phải quản lý trên 50 km đường biên giới, lực lượng lại mỏng. Do vậy đề nghị Chính phủ, Bộ Quốc phòng quy hoạch thành lập mới thêm Đồn biên phòng cho tỉnh, huyện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới; hiện nay, Bộ quốc phòng đang chỉ đạo các cơ quan chức năng, phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng nghiên cứu, lập đề án quy hoạch tổng thể việc thành lập mới, tổ chức lại, di chuyển các đồn Biên phòng cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới (trong đó, có các tuyến biên giới tỉnh Hà Giang). Tuy nhiên quá trình triển khai thực hiện đề án cần xác định lộ trình cụ thể, hạn chế thấp nhất việc tăng tổ chức, quân số, hồ sơ, thủ tục các bước khảo sát, nghiên cứu phải đảm bảo đầy đủ theo đúng quy định của Bộ Quốc phòng.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ 2 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Năm 2008, tỉnh Hà Giang lập dự toán tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh năm 2015; do đục cắm mốc nông lâm trường theo chỉ đạo của Chính phủ. Hiện nay, tiến độ thực hiện dự án đạt thấp do nguồn ngân sách của tỉnh rất hạn chế. Đề nghị Chính phủ, xem xét tăng mức đầu tư hỗ trợ thực hiện dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính quản lý đất đai trên địa bản tỉnh năm 2015 và hỗ trợ kinh phí đo đạc, cắm mốc đất nông – lâm trường.
1. Về kinh phí thực hiện Dự án tổng thể, tại Văn bản số 3618/VPCP-KTTH ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Văn Phòng Chính phủ về việc kinh phí đo đạc, lập cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trong giai đoạn  năm 2008 – 2010 tỉnh Hà Giang thuộc diện được ngân  sách Trung ương hỗ trợ 70% kinh phí còn lại sau khi địa phương đã bố trí đủ tối thiểu 10% tổng số thu từ tiền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trương đang phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, tổng hợp nhu cầu kinh phí thực hiện của các địa phương giai đoạn năm 2012 – 2015, trên cơ sở đó đề xuất phương án trình Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần kinh phí còn thiếu cho các địa phương.

Tuy nhiên nhu cầu kinh phí của các tỉnh rất lớn. Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu các tỉnh rà soát, cân đối kinh phí để hoàn thành dứt điểm theo địa bàn cấp huyện. Đo đạc, lập bản đồ địa chính gắn liền với lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai.

Đề nghị cử tri kiến nghị với Ủy ban nhân dân tỉnh dành tối thiểu 10% tổng số thu tiền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh và bố trí thêm ngân sách của tỉnh cho việc thực hiện Dự án tổng thể theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính Phủ tại Chỉ thị số 1474/2011/CT-TTg ngày 24/8/2011.

2. Về kinh phí thực hiện Dự án rà soát diện tích đất của các nông, lâm trường, tại Thông tư số 59/2012/TT-BTC ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi một số điều của Thông tư số 46/2005/TT-BTC ngày 08 tháng 6 năm 2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số vấn đề tài chính khi sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường thì kinh phí chi cho việc thực hiện đo đạc, rà soát đất, cắm mốc ranh giới, lập hồ sơ địa chính giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các Ban quản lý rừng, các công ty lâm nghiệp và kinh phí đo đạc, cắm mốc ranh giới của các nông, lâm trường quốc doanh do ngân sách địa phương đảm bảo. Đối với cấc địa phương có nhiều khó khăn, khó tự chủ được nguồn kinh phí thực hiện thì cần kiến nghị Bộ Tài chính và báo cáo Thủ tướng Chính phủ để Thủ tướng xem xét, giải quyết.
Thực hiện Nghị định số 64/1993/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ ban hành Bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; quá trình thực hiện qua nhiều năm không còn phù hợp, việc tích tụ đất đai làm cho rất nhiều hộ thiếu đất sản xuất. Đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật đất đai chia lại đất nông nghiệp phù hợp với việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới hiện nay. Luật Đất đai năm 2003 (khoản 1 Điều 67) đã quy định giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng với thời hạn 20 năm; khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt. Quy định này là kế thừa quy định của Luật Đất đai năm 1993 (Điều 20). Như vậy, chủ trương tiếp tục giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân khi hết thời hạn và không chia lại đã được khẳng định nhất quán trong Luật Đất đai qua các thời kỳ.

Ngày 25 tháng 5 năm 2012, tại Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có Kết luận số 22-KL/TW về việc tổng kết Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; theo đó, Trung ương đã kết luận: “Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân”.

Thực hiện chủ trương này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) theo hướng tăng thời hạn sử dụng đất nông nghiệp lên 50 năm, thời hạn này chung cho tất cả các loại đất nông nghiệp.

Đối với những trường hợp người sử dụng đất nông nghiệp đã chết, người không có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp như cán bộ công chức, người đã chuyển nghề..., pháp luật về đất đai đã quy định họ có quyền được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất…, vì thế, nếu người sử dụng đất nông nghiệp không có nhu cầu sử dụng đất thì sẽ thực hiện chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Để giải quyết vấn đề đất nông nghiệp cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sinh ra sau năm 1993, Nhà nước sẽ thu hồi đất nông nghiệp đối với trường hợp tự nguyện trả lại đất do không có nhu cầu, vận động các hộ gia đình đã chuyển đổi nghề mà có đất nông nghiệp chuyển nhượng, cho thuê đất cho lao động nông nghiệp chưa có đất; tăng cường tạo quỹ đất nông nghiệp của Nhà nước để cho các hộ thiếu đất hoặc chưa có đất để sản xuất thuê. Đồng thời, cần thực hiện việc đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông nghiệp trong nông thôn, phát triển các ngành nghề dịch vụ trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Quyết định số 78/2008/QĐ-TTg quy định về một số chính sách thực hiện chương trình bố trí dân cư theo Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức hỗ trợ không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Đề nghị Chính phủ xem xét:
- Nâng mức hỗ trợ di chuyển trong nội vùng dự án từ 10 triệu đồng/hộ lên mức 20 triệu đồng/hộ;
- Nâng mức di chuyển trong nội tỉnh đến vùng dự án từ 12 triệu đông/hộ lên mức 30 triệu đồng/hộ;
- Hỗ trợ hộ gia đình di chuyển đến thôn, bản giáp biên giới từ 30 triệu đồng/hộ lên mức 50 triệu đồng/hộ;
- Chính sách hỗ trợ cộng đồng đối với hộ dân cư về sống xen ghép từ 30 triệu đồng/hộ lên mức 50 triệu đồng/hộ;
- Hỗ trợ khai hoang xây dựng đồng ruộng 7 triệu đồng/ha lên mức 10 triệu đồng/ha;
- Hỗ trợ khai hoang tạo nương cố định từ 4 triệu đồng/ha lên mức 6 triệu đồng/ha.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 9119/VPCP-KTN ngày 16/12/2010 về việc “thực hiện Chương trình bố trí dân cư” và Thông báo số 273/TB-VPCP ngày 30/7/2012 của Văn phòng Chính phủ về Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại cuộc họp về tình hình dân di cư tự do; trong đó giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Quốc phòng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bố trí dân cư giai đoạn 2012 - 2015 và định hướng đến năm 2020 để thay thế Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 và Quyết định số 78/2008/QĐ-TTg ngày 10/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
Đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hoàn thành Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bố trí dân cư giai đoạn 2012 - 2015 và định hướng đến năm 2020 và đang tổng hợp, chỉnh sửa theo ý kiến góp ý vào bản Dự thảo của các Bộ, ngành có liên quan trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Nội dung của Dự thảo Quyết định đã đề cập chỉnh sửa theo hướng nâng mức hỗ trợ lên so với các mức hỗ trợ đã quy định trong Quyết định số 78/2008/QĐ-TTg ngày 10/6/2008.
Đặc biệt, đối với chính sách hỗ trợ di chuyển dân ra các thôn, bản giáp biên giới Việt - Trung, ngày 17/5/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 570/QĐ-TTg “về việc phê duyệt Quy hoạch Bố trí ổn định dân cư các xã biên giới Việt - Trung giai đoạn 2012 - 2017”; trong đó, quy định nâng mức hỗ trợ trực tiếp cho các hộ dân di chuyển đến thôn, bản sát biên giới lên 50 triệu đồng/hộ và hỗ trợ cộng đồng nhận dân xen ghép ở thôn, bản sát biên giới 80 triệu đồng/hộ. 
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sớm phê chuẩn và bổ sung ngân sách thực hiện Đề án "Chuyển đổi chất đốt cho 4 huyện vùng cao núi đá phía bắc (Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc) của tỉnh Hà Giang" lồng ghép vào dự án "Đầu tư phát triển rừng 4 huyện vùng cao núi đá phía bắc tỉnh Hà Giang" nhằm tăng nhanh độ che phủ, bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn nước, bảo tồn bền vững Công viên địa chất toàn cầu đã được UNESCO công nhận
Trước hết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xin cảm ơn cử tri tỉnh Hà Giang đã quan tâm đến công tác bảo vệ và phát triển rừng, vấn đề cử tri đề cập, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có ý kiến như sau:
Việc phê duyệt bổ sung Đề án chuyển đổi chất đốt cho 4 huyện (Quảng Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc) của tỉnh Hà Giang thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Về các vấn đề liên quan đến việc thẩm định và phê duyệt Đề án Bộ đã có các Văn bản: số 1408/BNN-TCLN ngày 24/5/2011 về việc giải quyết một số kiến nghị của tỉnh Hà Giang, gửi Văn phòng Chính phủ, trong đó có ý kiến về việc triển khai Dự án đầu tư và phát triển rừng tại 4 huyện vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang; Văn bản số 148/BNN-TCLN ngày 18/1/2012 gửi ủỵ ban nhân dân tỉnh Hà Giang về phương án bổ sung một số hạng mục chuyển đổi chất đốt thuộc Dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng tại 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc tỉnh Hà Giang.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét đưa Đề án quy tụ các hộ sống rải rác ở các sườn núi cao, vùng thiên tai, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới về sống tập trung tại thôn bản, gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 vào danh mục hỗ trợ đầu tư của Nhà nước.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 9119/VPCP- KTN ngày 16/12/2010 của Văn phòng Chính phủ về “Thực hiện Chương trình bố trí dân cư”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Quốc phòng tổng hợp, dự thảo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bố trí dân cư giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến 2020; trong đó có nội dung bố trí dân cư các hộ sống rải rác ở các sườn núi cao, vùng thiên tai, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới về sống tập trung tại thôn bản, gắn với xây dựng nông thôn mới.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Năm 2008 tỉnh Hà Giang lập Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh năm 2015; đo đạc cắm mốc đất Nông, Lâm trường theo chỉ đạo của Chính phủ.
Hiện nay tiến độ thực hiện đạt rất thấp do nguồn ngân sách của tỉnh hỗ trợ rất hạn chế. Đề nghị Chính phủ, các Bộ ngành chức năng xem xét tăng mức đầu tư hỗ trợ thực hiện dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh năm 2015 và hỗ trợ 100% kinh phí đo đạc, cắm mốc đất Nông, Lâm trường.
a) Về kinh phí thực hiện Dự án tổng thể, tại Văn bản số 3618/VPCP-KTTH ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ về việc kinh phí đo đạc, lập cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trong giai đoạn năm 2008 - 2010 tỉnh Hà Giang thuộc diện được ngân sách Trung ương hỗ trợ 70% kinh phí còn lại sau khi địa phương đã bố trí đủ tối thiểu 10% tổng số thu từ tiền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, tổng hợp nhu cầu kinh phí thực hiện của các địa phương giai đoạn năm 2012 - 2015, trên cơ sở đó đề xuất phương án trình Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần kinh phí còn thiếu cho các địa phương.
Tuy nhiên nhu cầu về kinh phí của các tỉnh rất lớn. Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu các tỉnh rà soát, cân đối kinh phí để hoàn thành dứt điểm theo địa bàn cấp huyện. Đo đạc, lập bản đồ địa chính gắn liền với lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai.
 Đề nghị cử tri kiến nghị với Ủy ban nhân dân tỉnh dành tối thiểu 10% tổng số thu từ tiền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh và bố trí thêm ngân sách của tỉnh cho việc thực hiện Dự án tổng thể theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 1474/2011/CT-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2011.
b) Về kinh phí thực hiện Dự án rà soát diện tích đất của các nông, lâm trường, tại Thông tư số 59/2012/TT-BTC ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi một số điều của Thông tư số 46/2005/TT-BTC ngày 08 tháng 6 năm 2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số vấn đề về tài chính khi sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường thì kinh phí chi cho việc thực hiện đo đạc, rà soát đất, cắm mốc ranh giới, lập hồ sơ địa chính giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các Ban quản lý rừng, các công ty lâm nghiệp và kinh phí đo đạc, cắm mốc ranh giới của các nông, lâm trường quốc doanh do ngân sách địa phương đảm bảo. Đối với các địa phương có nhiều khó khăn, khó tự chủ được nguồn kinh phí thực hiện thì cần kiến nghị Bộ Tài chính và báo cáo Thủ tướng Chính phủ để Thủ tướng xem xét, giải quyết.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Theo Quyết định 613/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định trợ cấp hàng tháng cho những người hưởng trợ cấp mất sức lao động có đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tế đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động; quy định như vậy thiệt thòi cho những người có đủ 10 năm đến dưới 15 năm công tác thực tế. Đề nghị Chính phủ điều chỉnh, sửa đổi giảm thời gian công tác thực tế xuống từ 10 năm đến dưới 15 năm để những người mất sức lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) được hưởng trợ cấp hàng tháng
Để góp phần ổn định cuộc sống của những người đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động, tuổi đã cao và có nhiều năm công tác, sau khi lấy ý kiến của các Bộ, ngành liên quan, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 613/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 giải quyết trợ cấp hàng tháng cho những người có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tế đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động và hết tuổi lao động.
Việc quy định giải quyết đối với những người đã hết tuổi lao động và có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tế nhằm đảm bảo tương quan giữa các nhóm đối tượng và khả năng cân đối của ngân sách nhà nước
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét có chính sách hỗ trợ đối với cán bộ xã nghỉ công tác được hưởng chế độ trợ cấp một lần, giai đoạn 1990 - 1998
Ngày 23/6/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 46-CP về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ đảng, chính quyền và kinh phí hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn. Tại Điều 4 của Nghị định này đã quy định: “Từ nay trở đi, cán bộ xã làm công tác ở xã liên tục từ 10 năm trở lên và không vi phạm kỷ luật thì khi nghỉ việc được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp này tính theo số năm công tác, mỗi năm công tác được trợ cấp một tháng, lấy theo mức sinh hoạt phí đang hưởng trước lúc nghỉ việc để tính. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã ra quyết định cụ thể đối với những cán bộ được trợ cấp này”. Tiếp đó, ngày 26/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 50-CP về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Tại Điều 4 của Nghị định này đã quy định: “Kể từ ngày ban hành Nghị định này, những cán bộ xã làm công tác tại xã liên tục từ 5 năm trở lên, không vi phạm kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên, khi nghỉ việc được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp này tính theo số năm công tác tại xã, mỗi năm công tác được trợ cấp một tháng, lấy theo mức sinh hoạt phí đang hưởng”.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định: Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng phụ cấp. Mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định với mức không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung.
Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh nâng mức hệ số 1,0 mức lương tối thiểu lên 1,5 đến 2,0 để góp phần đảm bảo đời sống cho những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
1. Căn cứ Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; liên tịch Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 27/5/2010 hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Các quy định cụ thể về xếp lương và phụ cấp của Nghị định và Thông tư liên tịch nêu trên đã có nhiều tiến bộ so với quy định trước đó, cụ thể là:
a) Đối với cán bộ cấp xã: Trường hợp có trình độ sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện xếp lương chức vụ theo bảng lương quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP (không thấp hơn so với trước đó). Trường hợp đã tốt nghiệp trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ trung cấp trở lên thì thực hiện xếp lương theo ngạch, bậc như công chức hành chính từ cấp huyện trở lên và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo quy định tại Điều 7 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP; nếu hệ số lương theo ngạch, bậc công chức hành chính cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo thấp hơn hệ số lương cũ hiện hưởng thì được hưởng hệ số chênh lệch bảo lưu theo quy định hoặc được chọn giữ nguyên hệ số lương cũ đã hưởng.
b) Đối với công chức cấp xã tốt nghiệp từ sơ cấp trở lên phù hợp với chuyên môn của chức danh đảm nhiệm thì thực hiện xếp lương theo ngạch, bậc như công chức hành chính từ cấp huyện trở lên (không thấp hơn quy định trước đó). Trường hợp chưa tốt nghiệp đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ (từ sơ cấp trở lên) thì hưởng hệ số lương bằng 1,18 so với mức lương tối thiểu chung (quy định trước đó là 1,09).
Ngoài việc xếp lương có tiến bộ hơn so với quy định trước đó thì cán bộ, công chức cấp xã cũng được hưởng các chế độ phụ cấp như đối với cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên làm việc cùng địa bàn.
c) Đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố được hưởng chế độ phụ cấp quy định tại Điều 14 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ. Mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định với mức không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung, trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ các địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với mức lương tối thiểu chung cho mỗi người hoạt động không chuyên trách.
2. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong việc xếp lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, nhưng chế độ tiền lương hiện hành đối với cán bộ, công chức từ Trung ương đến cấp xã hiện nay còn nhiều bất cập, mức lương và phụ cấp theo chế độ quy định còn thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Tiếp thu ý kiến của cử tri và ý kiến chất vấn của Đại biểu Quốc hội tại một số kỳ họp Quốc hội khoá XII và khoá XIII, căn cứ ý kiến của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 1699/VPCP-KGVX ngày 16/3/2012 của Văn phòng Chính phủ “Bộ Nội vụ nắm tình hình về bố trí chức danh hoạt động không chuyên trách ở các địa phương theo quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, nếu thấy cần thiết sửa đổi, bổ sung, Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan nghiên cứu, đề xuất phù hợp với yêu cầu thực tiễn và các quy định của pháp luật hiện hành, trình Chính phủ xem xét, quyết định” và căn cứ quy định tại Điểm 2.7 Khoản 2 Mục II Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) “về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ sở, tiến hành tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX), qua đó, nghiên cứu đề ra giải pháp tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, trình Hội nghị Trung ương 7 (khoá XI) tháng 5/2013. Trước mắt, nghiên cứu xử lý một số bất hợp lý của chế độ phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở”, theo đó, Bộ Nội vụ đã soạn thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 92/2009/NĐ-CP và đã có công văn số 2914/BNV-CQĐP ngày 15/8/2012 gửi lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương (trong đó có Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố nêu trên). Sau khi tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Nội vụ sẽ tiến hành các thủ tục trình Chính phủ xem xét, quyết định.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ NHẤT – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị|:
Đề nghị Chính phủ tiếp tục đầu tư vốn cho tỉnh Hà Giang xây dựng 300 hồ treo, với dung tích mỗi hồ từ 2.000 đến 3.000 m3 trong giai đoạn 2011 – 2015, để giải quyết nhu cầu nước sinh hoạt cho trên 17.000 hộ dân ở các huyện vùng cao, thôn bản vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
Được sự quân tâm của Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN&PTNT, các Bộ, ngành TW, địa phương và nhà tài trợ về đầu tư cho chương trình xây dựng hệ thống hồ chứa nước sinh hoạt tại 04 huyện vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang; từ năm 2007 đến năm 2011, tổng số hồ chứa nước sinh hoạt đã, đang và chuẩn bị đầu tư là 91 hồ (trong đó: Đồng Văn 33 hồ, Mèo Vạc 16 hồ, Yên Minh 24 hồ, Quản Bạ 18 hồ), tổng mức đầu tư của 91 hồ khoảng 1.096,4 tỷ đồng (trong đó: Đã hoàn thành 37 hồ, đang thi công 40 hồ, 14 hồ chuẩn bị đầu tư).
Bên cạnh đó Bộ Nông nghiệp & PTNT với vai trò là cơ quan chủ trì chương trình MTQG nước sạch & VSMTNT, hàng năm có cân đối nguồn lực để đầu tư cho lĩnh vực nước sạch & VSMTNT, trong đó Hà Giang là tỉnh miền núi, vùng cao đặc biệt khó khăn về nguồn nước nên được ưu tiên cao trong việc phân bổ nguồn vốn.
Đề nghị của tỉnh Hà Giang về nguồn vốn đầu tư xây dựng các hồ treo để giải quyết nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa là rất cần thiết và cấp bách; tuy nhiên nhu cầu vốn đầu tư khá lớn so với nguồn vốn của Chương trình MTQG. Để tìm hướng giải quyết, vừa qua Bộ Kế hoạch & ĐT chủ trì và cùng các Bộ: Bộ Nông nghiệp & PTNT, Tài chính, Khoa học & Công nghệ đi kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng cũng như tình hình đầu tư xây dựng các hồ chứa nước của Hà Giang để báo cáo đề xuất với Chính phủ chính sách đầu tư phù hợp trong thời gian tới.
Để cải thiện việc cấp nước cho đồng bào dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung và đối với 04 huyện cao nguyên núi đá nói riêng, Bộ Nông nghiệp & PTNT đề nghị UBND tỉnh:
1. Rà soát lại quy hoạch cấp nước sinh hoạt của tỉnh để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch đầu tư hàng năm từ các nguồn cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, ưu tiên những vùng cấp bách thường xuyên bị thiếu nước sinh hoạt;
2. Chủ động sắp xếp và lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án trên địa bàn tỉnh để đầu tư xây dựng các công trình cấp nước đảm bảo không giàn trải và ưu tiên đầu tư cho những vùng khó khăn;
3. Do đặc thù cấp nước sinh hoạt bằng hồ treo có công suất dầu tư rất cao chỉ phù hợp với những vùng đặc biệt khan hiếm nước; vì vậy, khi áp dụng hình thức này, tỉnh cần quan tâm đến quy mô phù hợp cũng như đảm bảo tính hiệu quả sử dụng sau đầu tư và cải thiện chất lượng nước; ở những nơi có nguồn nước sông, suối, mạch lộ nên ưu tiên đầu tư mô hình cấp nước tự chảy và cấp nước quy mô hộ gia đình vừa kinh tế vừa phù hợp với năng lực quản lý vận hành của đồng bào dân tộc.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Đảng, Nhà nước cho hưởng bảo hiểm y tế người nghèo, bảo hiểm y tế trẻ em dưới 6 tuổi như các hộ nghèo là người dân tộc thiểu số ở những vùng đó.
Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ Tướng Chính phủ về việc khám chữa bệnh cho người nghèo, đã được giải quyết khó khăn và đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của các đối tượng yếu thế trong xã hội như người nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn trong thời gian qua.

Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách còn hạn chế và để tránh tình trạng bao cấp tràn lan, Luật BHYT đã quy định cụ thể hơn hai nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước đảm bảo đóng bảo hiểm y tế cho người thuộc gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Riêng người thuộc hộ gia đình cận nghèo và người thuộc hộ gia đình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình được ngân sách Nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% – 50% mức đóng bảo hiểm y tế.

Như vậy, về cơ bản người Kinh thuộc gia đình nghèo đã được ngân sách Nhà nước đảm bảo cấp thẻ BHYT và người Kinh thuộc hộ gia đình cận nghèo đó được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng BHYT. Quy định này nhằm hỗ trợ cho người nghèo, người dân tộc thiểu số sinh số tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, là một chính sách an sinh xã hội phù hợp giúp chia sẻ khó khăn, góp phần đảm bảo công bằng và giúp người dân tiếp cận được với dịch vụ y tế. Việc bổ sung các đối tượng như kiến nghị của cử tri đã và đang được Chính phủ xem xét và trình Quốc hội khi sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ tăng định mức kinh phí đảm bảo cho công tác tuần tra, bảo vệ đường biên, mốc giới theo Quyết định 120/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2003 từ 100 triệu đồng lên 300 triệu đồng nhằm đáp ứng yêu cầu trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Theo Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 11/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt – Trung đến năm 2010; mỗi xã biên giới được Nhà nước cấp 100 triệu đồng cho nhiệm vụ bảo vệ cột mốc và an ninh biên giới; kinh phí này được cấp qua ngân sách địa phương; tuy nhiên, khoản kinh phí trên được quy định từ năm 2003.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới và phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay; Bộ Quốc phòng xin tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri và phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan tiền hành rà soát và đề xuất với Chính phủ nghiên cứu, xem xét, sớm điều chỉnh tăng mức kinh phí bảo đảm, góp phần động viên và giảm bớt khó khăn cho các lực lượng tham gia làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ đường biên, cột mốc và an ninh biên giới của tổ quốc.

Đồng thời, Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ đạo Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng làm tốt công tác phối hợp, hiệp đồng và tham mưu, giúp cấp uỷ, chính quyền địa phương, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí bảo đảm cho nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ đường biên, cột mốc và an ninh biên giới. Mặt khác, tổ chức tổng kết, đánh giá các kết quả đã đạt được và những vướng mắc, tồn tại; phối hợp cùng với các địa phương, bộ ngành có liên quan báo cáo Chính phủ để có giải pháp bảo đảm tốt hơn cho các lực lượng thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ tăng nguồn vốn đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thi công quốc lộ 279, quốc lộ 4D; quyết định cho nâng cấp tuyến đường quốc lộ 4C Hà Giang đi 4 huyện vùng cao thuộc Công viên địa chất toàn cầu - Cao nguyên đá Đồng Văn, nâng cấp tuyến đường quốc lộ 2 đoạn Đoan Hùng (tỉnh Phú Thọ) đi Hà Giang thành đường cao tốc để đảm bảo thu hút đầu tư và phát huy tối đa hiệu quả kinh tế về thương mại và du lịch của tỉnh Hà Giang.
1. Đầu tư cải tạo nâng cấp quốc lộ 2 từ Hà Nội đến Hà Giang.
 Quốc lộ 2 có điểm đầu tại Phủ Lỗ – Hà Nội và điểm cuối là cửa khẩu Thanh Thủy – Hà Giang chiều dài 313km.
- Đoạn từ Phủ Lỗ đến hết thành phố Vĩnh Yên đã được đầu tư quy mô với bốn làn xe hiện đang khai thác sử dụng tốt.
- Đoạn từ thành phố Vĩnh Yên đến Đoan Hùng được đầu tư quy mô 2 đến 4 làn xe, hoàn thành trong giai đoạn từ 2006 – 2010, hiện đang khai thác sử dụng tốt.
- Đoạn từ Đoan Hùng – TX Hà Giang: Giai đoạn 1 hoàn thành vào tháng 3/2005 với tiêu chuẩn đường cấp IV miền núi, giai đoạn 2 bổ sung làm mới một số cầu và kiên cố hóa công trình, hoàn thành công trình này vào năm 2010. Hiện tại, mặt đường đoạn từ km110 – km287 đã bị hư hỏng do xe quá tải gây ra, phương tiện qua lại không được êm thuận. Thủ tướng Chính phủ đã cho phép tăng cường nền, mặt đường cho dự án này.
- Đoạn từ km110 – km175 (hỏng nặng nhất): Bộ GTVT đã phê duyệt dự án bằng quyết định số 3478/QĐ-BGTVT ngày 3/12/2010 với TMĐT và 445 tỷ đồng, Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng vốn TPCP tại văn bản số 8491/VPCP-KTTH ngày 27/11/2009 của VPCP, dự kiến hoàn thành năm 2013. Tuy nhiên, Quốc hội đã quyết định không phát hành bổ sung TPCP giai đoạn 2011 – 2015 nên dự án chưa được bố trí nguồn vốn để triển khai. Trước mắt, BGTVT sẽ chỉ đạo tổng cục ĐBVN thực hiện công tác duy tu bảo dưỡng để đảm bảo an toàn giao thông. Bộ GTVT sẽ phối hợp với các Bộ, nghành tìm kiếm vốn để triển khai sớm.
 - Đoạn từ km175 – km287: Bộ GTVT đưa vào dự án bảo trì đường bộ, sử dụng vốn vay ngân hàng thế giới ( ƯB4), hiện đang triển khai các thủ tục, dự kiến khởi công vào quý 2/2014.
- Đoạn km287 – km313: đã hoàn thành nâng cấp vào năm 2007, với tiêu chuẩn đường cấp IV. Hiện tại đang khai thác bình thường.
2. Đầu tư cải tạo nâng cấp QL279 đoạn Việt Vinh – Nghĩa Đô đoạn qua tỉnh Hà Giang, kết nối với tuyến cao tốc Hà Nội – Lào Cai.
 Bộ GTVT đã phê duyệt dự án cải tạo nâng cấp QL279 đoạn Việt Vinh – Nghĩa Đô (km0-km36) trên địa bàn tỉnh Hà Giang nối Hà Giang với Yên Bái, Lào Cai (QĐ số 1594/QĐ-BGTVT ngày 9/6/2010) với TMĐT 728 tỷ đồng, đồng thời đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn thực hiện đầu tư dự án.
Năm 2013, Bộ GTVT đã bố trí nguốn vốn ngân sách Nhà nước để triển khai dự án và sẽ tiếp tục phối hợp với địa phương và các Bộ, nghành liên quan để ưu tiên bố trí vốn, thực hiện đầu tư, sớm hoàn thành dự án.
3. Đầu tư cải tạo, nâng cấp tuyến đường QL4C trên địa bàn tỉnh Hà Giang QL4C là tuyến vành đai biên giới phía bắc thuộc địa phận tỉnh Hà Giang, chiều dài khoảng 200km, trong đó:
- Giai đoạn 2002 – 2010, Bộ GTVT đã đầu tư hoàn thành 33km các đoạn qua trung tâm TP.Hà Giang và trung tâm các huyện, đường cấp IV-III, các đoạn này đang khai thác bình thường.
- Các đoạn tuyến còn lại (167km), hiện nay Bộ GTVT đang chỉ đạo:
+ Triển khai thi công đoạn tránh thị trấn Yên Minh (km95+700-km99+750), quy mô đường cấp III, dự kiến hoàn thành năm 2013.
+ Đã phê duyệt dự án cải tạo, nâng cấp QL4C đoạn km57-km64 và dự án xây dựng tuyến tránh thị trấn Đồng Văn (km142+100-km145+800).
+ Đang triển khai lập dự án cải tạo, nâng cấp tổng thể các đoạn còn lại trên QL4C trên địa phận tỉnh Hà Giang (km0-km200).
Do nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn khó khăn, hạn chế và thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 nên chưa thể bố trí vốn khởi công các dự án trong kế hoạch năm 2013. Bộ GTVT ghi nhận và sẽ phối hợp chặt chẽ với địa phương, các Bộ, ngành liên quan để tiếp tục huy động các nguồn vốn (bao gồm cả nguồn vốn ODA) nhằm sớm thực hiện đầu tư các đoạn tuyến này.
CÁC BỘ, NGÀNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 4 – QUỐC HỘI KHÓA XIII DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét quy định kéo dài thời hạn sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; hiện nay thời hạn sử dụng 01 năm là quá ngắn, việc triển khai làm thẻ bảo hiểm còn chậm, ảnh hưởng đến thời gian sử dụng thẻ và gây tốn kém ngân sách. Đề nghị kéo dài thời hạn sử dụng thẻ BHYT từ 01 năm lên 03 năm.
Theo quy định hiện hành, thời hạn sử dụng thẻ hiện nay ít nhất là 1 năm. Tuy nhiên, tùy nhóm đối tượng, tùy vào nguồn kinh phí đóng cho đối tượng đó có ổn định hay không, thời hạn thẻ có thể kéo dài 2 năm hoặc 3 năm (ví dụ đối tượng “hưu trí” nguồn kinh phí đóng là cơ quan BHXH có tính ổn định, vì vậy thẻ cấp cho đối tượng hưu trí thông thường là 3 năm hoặc 5 năm)
Các đối tượng còn lại, tùy từng nhóm đối tượng, có những đặc điểm, nguồn kinh phí đóng BHYT theo niên độ tài chính khác nhau mà quy định thời hạn thẻ khác nhau.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Thực hiện Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc; Theo quyết định đối tượng là những người trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì được hưởng chế độ, những người làm nhiệm vụ ở tuyến sau thì không được hưởng chế độ; đề nghị Chính phủ xem xét có chế độ, chính sách cho đối tượng là những người làm nhiệm vụ ở tuyến sau.
Theo quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 05/01/2012 của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính thì một trong những điều kiện để xác định đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc được hưởng chế độ là ngưởi phải trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các huyện thuộc biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc (bao gồm cả các huyện đảo biên giới và khu vực Hoàng Sa, Trường sa, DK1; làm nhiệm vụ truy quét Ful rô ở các tỉnh Tây Nguyên) và các địa bàn phụ cận có xảy ra chiến sự.
Bộ Quốc phòng đã giao Tổng Tham mưu trưởng ban hành Quyết định quy định những địa bàn phụ cận có xảy ra chiến sự (tại Quyết định số 2084/QĐ-BTTM ngày 09/11/2012, kèm theo Danh mục địa bàn, thời gian, đơn vị trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975). Theo đó, các địa bàn không phải huyện biên giới nhưng có chiến sự xảy ra đều được xác định làm căn cứ xét hưởng chế độ đối với đối tượng.
Địa bàn huyện biên giới được hiểu là địa bàn tác chiến (chiến đấu) của các đơn vị, không chỉ là địa bàn đứng chân hoặc đóng quân. Vì vậy, các trường hợp đơn vị đứng chân (đóng quân) ở phía sau nhưng được tăng cường, phối thuộc trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở địa bàn huyện biên giới hoặc địa bàn phụ cận có xảy ra chiến sự đều thuộc đối tượng được xét hưởng chế độ theo quy định.
Đối với trường hợp không trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong địa bàn, thời gian theo quy định thì không thuộc đối tượng được thực hiện chế độ, chính sách tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Hiện nay trẻ em trong độ tuổi năm tuổi đang học ở các cơ sở giáo dục mầm non có cha mẹ thường trú ở các xã biên giới, núi cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đang được hưởng hỗ trợ ăn trưa với mức 120.000đ/tháng/cháu theo thời gian học thực tế theo Thông tư số 29/TTLB-BGĐT-BTC ngày 15/7/2011 của Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Tài chính. Tuy nhiên ở cùng một trường, nhất là các điểm trường thôn bản trẻ em trong độ tuổi ba tuổi, bốn tuổi học chung một phòng học, việc tổ chức cho các cháu ăn trưa rất bất cập;
Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương xem xét bổ sung đối tượng trẻ em trong độ tuổi ba tuổi, bốn tuổi có cha mẹ thường trú ở các xã biên giới, núi cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng hỗ trợ ăn trưa theo Thông tư số 29/TTLB-BGĐT-BTC ngày 15/7/2011 của Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Tài chính.
Theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 26/10/2011, Quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011 - 2015, (mục c, khoản 1, điều 2): Trẻ em mẫu giáo 3 và 4 tuổi có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, núi cao, hải đảo, các xã và thôn bản đặc biệt khó khăn, hoặc cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi nương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ 120.000 đồng/tháng và được hưởng theo thời gian học thực tế, nhưng không quá 9 tháng/năm học để duy trì bữa ăn trưa tại trường.

Như vậy, trẻ em mẫu giáo 3 và 4 tuổi sẽ được hỗ trợ tiền ăn như đối với trẻ 5 tuổi, đối tượng và mức hỗ trợ giống nhau. Dự kiến Thông tư liên tịch hướng thực hiện nội dung này sẽ ban hành trong quý 1/2013.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức trợ cấp xã hội đối với sinh viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Vì Quyết định số 194/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh mức học bổng chính sách và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến nay: mức lương tối thiểu đã tăng 3,95 lần, mức trợ cấp xã hội cho sinh viên dân tộc thiểu số 140.000đồng/tháng là quá.
Đề nghị miễn, giảm học phí cho con em các dân tộc thiểu số đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và nâng mức trợ cấp xã hội đối với sinh viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
1. Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015 đã quy định đối tượng miễn học phí là: Học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo và hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo. Với kiến nghị của cử tri về việc miễn, giảm học phí cho con em các dân tộc thiểu số đang học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng con em các dân tộc thiểu số thường sống ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, hộ gia đình chủ yếu là hộ nghèo và cận nghèo, do vậy sẽ được hưởng chế độ miễn, giảm học phí theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP.
2. Về đề nghị nâng mức trợ cấp xã hội đối với sinh viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn: Đối với sinh viên ở vùng cao vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hiện nay chế độ Nhà nước chưa có quy định trợ cấp cho đối tượng này. Đối với sinh viên là người dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hiện đang được hưởng mức trợ cấp theo Thông tư liên tịch số 53/1998/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 25/8/1998 hướng dẫn thực hiện chế độ học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập. Thông tư liên tịch số 53/1998/TTLT-BGDĐT-BTC-BL ĐTBXH đã ban hành từ năm 1998, mức chi đến nay không còn phù hợp.
Hiện nay, liên Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23/12/1997 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập, dự kiến sẽ nâng mức trợ cấp xã hội bằng 50% mức lương tối thiểu. 
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Theo Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày 18/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân: Điều 1 khoản 1 quy định: "Cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới"; Quyết định số 268/QĐ-TTg ngày 23/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về biểu giá bán lẻ điện: Điều 1, khoản 1, mục đ quy định: "Các hộ thuộc diện hộ nghèo theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định được hỗ trợ giá điện cho 50kWh/tháng, mức hỗ trợ là 30.000đồng/hộ/tháng. Kinh phí hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo lấy từ tiền bán điện; Đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức hỗ trợ tiền dầu thắp sáng cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới (theo Quyết định 289/QĐ-TTg) tương đương với mức hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo (theo Quyết định 268/QĐ-TTg), để tránh thiệt thòi giữa các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ đồng bào dân tộc thiểu số chưa được sử dụng điện.
Ngày 18/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân; trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 37/2008/TT-BTC hướng dẫn chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới, theo đó: các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới được hỗ trợ bằng tiền tương đương 5 lít dầu hỏa/năm để thắp sáng.
Đồng thời, để hỗ trợ hộ nghèo có kinh phí để thắp sáng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo với mức hỗ trợ 30.000 đồng/hộ/tháng, theo đó tất cả các hộ nghèo được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo chuẩn nghèo quốc gia quy định tại Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 đều được hỗ trợ trực tiếp 30.000 đồng/hộ/tháng.
Mức hỗ trợ trên cơ bản đã đảm bảo được nhu cầu thắp sáng của hộ nghèo và đáp ứng kiến nghị của cử tri đề xuất.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
Địa chỉ: Số 01, Đường 26/3 - Phường Nguyễn Trãi - Thành phố Hà Giang - Tỉnh Hà Giang
Điện thoại: 02193.860.778 - Fax: 02193.860.778
Email: bbt.dbnd@hagiang.gov.vn hoặc tttthdndhg@gmail.com