Câu hỏi |
Trả lời |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện và tăng mức hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định số 167/QĐ-TTg, Quyết định 67/QĐ –TTg và 74/QĐ-TTg để đảm bảo nơi cư trú an toàn trong điều kiện bình thương và mức hỗ trợ còn quá thấp. |
Việc hỗ trợ nhả ở cho các hộ gia đình nghèo có khó khắc về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian vừa qua đã thực hiện được trên 510.000 hộ. Tuy nhiên theo báo cáo sơ bộ của các địa phương cả nước thì hiện nay vẫn còn trên 500.000 hộ theo tiêu chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015 có khó khăn về nhà ở cần được hỗ trợ để đảm bảo cho họ có cuộc sống an toàn, ổn định. Do vậy, việc cử tri các tỉnh kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục thực hiện hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở là cấn thiết.
Về mức hỗ trợ: Theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì nhứng hộ dân thuộc diện đối tượng Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 6 triệu đồng/hộ và những hộ dân thuộc diện đối tượng đang cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn thì Ngân sách Trung ương hỗ trợ 07 triệu đồng/hộ để xây dựng nhà ở; các địa phương có trách nhiệm hỗ trợ thêm từ Ngân sách địa phương với mức không thấp hơn 20% so với ngân sách Trung ương hỗ trợ. Như vậy, mỗi hộ dân được Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu từ 7,2 – 8,4 triệu đồng/hộ, đồng thời mỗi hộ dân được vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách xã hội với mức 8 triệu đồng/hộ. Ngoài mức hỗ trợ và mức cho vay theo quy định, các địa phương đã tích cực vận động sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, cũng như sự giúp đỡ của anh em, dòng họ và sự đóng góp của các hộ gia đình, do đó hầu hết nhà ở được hỗ trợ đều đảm bảo và vượt quy định về diện tích và chất lượng (diện tích tối thiểu 24m2, nhả ở đảm bảo "3 cứng": Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên).
Tuy nhiên, hiện nay, giá vật liệu xây dựng đã tăng khá cao, vì vậy với mức hỗ trợ nói trên sẽ rất khó khăn để có thể xây dựng được căn nhà đảm bảo diện tích và chất lượng như quy định nói trên, cũng như ý kiến cử tri đã nêu.
Để tiếp tục thực hiện hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các địa phương nghiên cứu, xây dựng Đề án và cơ chế, chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011 – 2015. Hiện nay, Đề án và dự thảo cơ chế, chính sách hỗ trợ nhà ở, Bộ xây dựng đã trình Thủ tướng Chính Phủ xem xét, quyết định, theo đó, mức hỗ trợ có đề xuất tăng lên để phù hợp với giá cả vật liệu xây dựng, đảm bảo yêu cầu mức hỗ trợ của Nhà nước cùng với các nguồn vốn huy động khác, các hộ nghèo có thể xây dựng được căn nhà có diện tích tối thiểu 24m2, nhà ở đảm bảo "3 cứng": Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà 10 năm trở lên như quy định tại Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, đủ điều kiện tối thiểu người dân có nơi cư trú an toàn trong điều kiện bình thường như ý kiến của cử tri. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
1. Trong các tỉnh miền núi phía đông bắc: các chương trình, dự án đầu tư cho tỉnh Hà Giang nguồn vốn với mức đầu tư thấp nhất khu vực. Đề nghị Bộ tham mưu với Chính phủ xem xét, quyết định cho tỉnh Hà Giang được hướng cơ chế đặc thù; thu ngân sách địa phương để lại 100%, tỉnh chủ động cấn đối đầu tư, thời gian thí điểm thực hiện trong một nhiệm kỳ 5 năm.
2. Đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức hỗ trợ tiền dầu thắp sáng cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới (theo Quyết định 289/QĐ-TTg mức hỗ trợ bằng tiền tương đương 5 lít dầu hỏa/năm) tương đương với mức hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo (theo Quyết định 268/QĐ-TTg mức hỗ trợ là 30.000 đồng/tháng), để tránh sự thiệt thòi giữa các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ đồng bào dân tộc thiểu số chưa được sử dụng điện lưới. |
1. Việc phân bổ vốn đầu tư cho các địa phương thực hiện theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015, trong đó mức vốn đầu tư phân bổ cho các địa phương khó khăn, trong đó tỉnh Hà Giang được căn cứ theo các nguyên tắc, tiêu chí như dân số và số người dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo... Mức vốn đầu tư hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương được xác định đối với từng chương trình, mục tiêu cụ thể.
Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, thu ngân sách nhà nước của tỉnh Hà Giang mới chỉ đáp ứng một phần chi cân đối ngân sách địa phương và tỉnh Hà Giang được hưởng cơ bản số thu nội địa trên địa bàn (trừ một số khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% chiếm tỷ lệ rất nhỏ như: thu phí, lệ phí của trung ương, thu khác của doanh nghiệp nhà nước trung ương và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài), đồng thời nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương. Đồng thời, hàng năm, thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về nguồn kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ để lại một phần số 50% tăng thu ngân sách địa phương để thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, nhiệm vụ cấp bách phát sinh và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong đó có tỉnh Hà Giang (tăng thu ngân sách địa phương năm 2011, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ để lại 100% cho địa phương là 38,588 triệu đồng).
Vì vậy, đối với đề nghị tỉnh Hà Giang về để lại 100% thu ngân sách địa phương cho tỉnh chủ động cân đối đầu tư, đề nghị tỉnh thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
2. Ngày 18/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân, trên cơ sở đó. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 37/2008/TT-BTC hướng dẫn chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới được hỗ trợ bằng tiến tương đương 5 lít dầu hỏa/năm để thắp sáng
Đồng thời, để hỗ trợ hộ nghèo có kinh phí để thắp sáng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo với mức hỗ trợ duyệt theo chuẩn nghèo quốc gia quy định tại Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 đều được hỗ trợ trực tiếp 30.000 đồng/hộ/tháng.
Mức hỗ trợ trên cơ bản đã đảm bảo nhu cầu thắp sáng của hộ nghèo và đáp ứng kiến nghị cử tri đề xuất.
|
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; quá trình thực hiện Nghị quyết hơn một năm đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước đã có sự tăng trưởng trở lại.
Tuy nhiên việc cắt giảm đầu tư công, nhất là ở tỉnh Hà Giang, các huyện đặc biệt khó khăn đã làm cho tình hình phát triển kinh tế, an sinh xã hội giảm sút, nhân dân thiếu việc làm, sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn, các công trình thi công dở dang bị ảnh hưởng về chất lượng… Đề nghị Chính phủ xem xét ban hành cơ chế chính sách phù hợp, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo nhiều việc làm cho nhân dân; đối với các huyện đặc biệt khó khăn thuộc chương trình Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ cần được đáp ứng 100% nguồn vốn đầu tư hàng năm và tăng mức đầu tư để đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng tạo cơ hội cho nhân dân phát triển sản xuất, kinh doanh. |
Trước tình hình lạm phát tăng cao trong năm 2010 – 2011, Chính phủ đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Nội dung chủ yếu là tăng cường hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, các công trình khởi công mới nếu không thực sự cần thiết thì sẽ tạm dừng, chưa khởi công. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập chung cho các dự án hoàn thành, chuyển tiếp nhằm sớm đưa dự án vào sử dụng, phát huy tác dụng. Chính phủ không chủ trương cắt giảm nguồn vốn đầu tư mà chỉ điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả nguồn vốn, trong đó tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, chưa thể đáp ứng được ngay nhu cầu đầu tư các huyện nghèo, xã nghèo. Việc tính toán phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương được thực hiện theo quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011 – 2015.
Đối với các huyện nghèo, trong thời gian tới căn cứ khả năng nguồn lực huy động, ngân sách Trung ương sẽ tiếp tục hỗ trợ đầu tư nhằm hỗ trợ cho đồng bào khu vực này, đồng thời cũng xem xét bổ sung thêm một số huyện được hưởng cơ chế hỗ trợ như các huyện nghèo nhằm mở rộng hơn nữa diện đối tượng thụ hưởng chính sách. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị bổ sung đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, hợp đồng lao động, người hoạt động không chuyên trách và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác tại cấp huyện, thị trấn ở các huyện đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP thì đều được hưởng chế độ phụ cấp thu hút theo Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2012
- “Theo Quyết định 116/QĐ-TTg thì cán bộ, công chức được hưởng 70% lương nhưng cán bộ không là công chức không được hưởng, đề nghị xem xét cho cán bộ không phải là công chức được hưởng”.
- “Đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2011) cho phù hợp vì quy định thời hạn hưởng còn bất cập (những người có thời gian công tác trước ngày 01 tháng 3 năm 2011 thì không được hưởng)”.
- “Đề nghị Bộ Nội vụ xem xét, sửa đổi Thông tư liên tịch số 08/2011/TTLT-BNV-BTC ngày 31 tháng 8 năm 2011 theo hướng nên quy định đối tượng là lao động hợp đồng tại xã, phường, thị trấn được hưởng phụ cấp thu hút bằng 70% tiền lương nhằm đảm bảo sự công bằng trong chế độ”. |
- Căn cứ quy định tại Khoản 2 Mục III Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với huyện nghèo thì chỉ các xã thuộc huyện nghèo được hưởng chính sách quy định đối với xã đặc biệt khó khăn. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác tại các thị trấn thuộc các huyện nghèo không áp dụng chính sách đối với vùng đặc biệt khó khăn quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP.
- Đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp quy định tại Điều 14 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; đồng thời Luật Cán bộ, công chức năm 2008 không điều chỉnh đối với những người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động ở cấp xã. Do vậy các đối tượng là hợp đồng lao động ở cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng không thuộc phạm vi, đối tượng áp dụng chính sách quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ.
- Do Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2011, vì vậy các trường hợp có thời gian công tác trước ngày 01 tháng 3 năm 2011 không thuộc đối tượng áp dụng của Nghị định số 116/2010/NĐ-CP. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Trong các tỉnh miền núi phía đông bắc: các chương trình, dự án đầu tư cho tỉnh Hà Giang nguồn vốn với mức đầu tư thấp nhất khu vực. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét quyết định cho tỉnh Hà Giang được hưởng cơ chế đặc thù: Thu ngân sách địa phương để lại 100%, tỉnh chủ động cân đối đầu tư, thời gian thí điểm thực hiện trong một nhiệm kỳ 5 năm. |
Việc phân bổ vốn đầu tư cho các địa phương thực hiện theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015, trong đó mức vốn đầu tư phân bổ cho các địa phương khó khăn, trong đó có tỉnh Hà Giang được căn cứ theo các nguyên tắc, tiêu chí như dân số và số người dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo,... Mức vốn đầu tư hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương được xác định đối với từng Chương trình, mục tiêu cụ thể.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, thu ngân sách nhà nước của tỉnh Hà Giang mới chỉ đáp ứng được một phần chi cân đối ngân sách địa phương và tỉnh Hà Giang được hưởng cơ bản số thu nội địa trên địa bàn (trừ một số khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% chiếm tỷ lệ rất nhỏ như: thu phí, lệ phí của Trung ương, thu khác của doanh nghiệp nhà nước trung ương và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài), đồng thời nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương. Đồng thời, hàng năm, thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về nguồn kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ để lại một phần số 50% tăng thu ngân sách địa phương để thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội, nhiệm vụ cấp bách phát sinh và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong đó có tỉnh Hà Giang (tăng thu ngân sách địa phương năm 2011, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ để lại 100% cho địa phương là 38.588 triệu đồng).
Vì vậy, đối với đề nghị của tỉnh Hà Giang về để lại 100% thu ngân sách địa phương cho tỉnh chủ động cân đối đầu tư, đề nghị tỉnh thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Mức phụ cấp của đối với cộng tác viên Dân số KHHGĐ xã hiện nay 200.000đ/ tháng, cộng tác viên thôn bản là 40.000đ/ tháng, không đảm bảo cho hoạt động, nhất là cán bộ ở các xã đặc biệt khó khăn, không được hưởng biên chế trong cơ cấu biên chế của xã. Đề nghị Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ương xem xét nâng mức phụ cấp cho cộng tác viên dân số xã và thôn bản. |
Đội ngũ làm Cộng tác viên (CTV) Dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) được hình thành và đi vào hoạt động từ năm 1993; tính đến ngày 31/12/2012 tổng số CTV trên toàn quốc là 174.208 người đang tham gia hoạt động tại các tổ dân phố, thôn, ấp, phum, sóc, bản, làng. Đội ngũ CTV là những người gần dân nhất, là mắt xích cuối cùng, quan trọng nhất của bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ ở cơ sở, họ có những đóng góp hết sức quan trọng vào thành công của công tác DS-KHHGĐ trong những năm vừa qua.
Đến thời điểm hiện nay, CTV dân số được hưởng chế độ phụ cấp hằng tháng theo Thông tư liên tịch số 32/2008/TTLT-BTC-BYT của Bộ Tài chính và Bộ Y tế về hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2006-2010 theo định mức là 50.000 đồng/người/tháng và một số tỉnh thuộc Đề án 52 được hưởng chế độ thù lao theo Thông tư số 233/2009/TTLT-BTC-BYT ngày 09/12/2009 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Đề án 52 là 100.000 đồng/người/tháng. Ngoài ngân sách Trung ương chi trả phụ cấp hằng tháng còn có 40 tỉnh trên cả nước dùng nguồn ngân sách địa phương để hỗ trợ thêm cho đội ngũ CTV dân số trong đó từ 20.000đ – 50.000 có 18 tỉnh; từ 60.000đ – 100.000đ có 13 tỉnh; 110.000đ đến 250.000đ/người/tháng có 9 tỉnh; một số tỉnh quy định mức phụ cấp theo hệ số 0,2 mức lương tối thiểu như: Lai Châu, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Kiên Giang. Vĩnh Long hưởng 0,3 mức lương tối thiểu, nhiều địa phương hằng năm đã có những chính sách khen thưởng động viên kịp thời đối với CTV và cụm dân cư có thành tích xuất sắc trong công tác DS-KHHGĐ. Hiện nay Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Thông tư liên tịch hướng dấn mức phụ cấp cho cán bộ DS-KHHGĐ mức 100.000đ/người/tháng.
Đối với chính sách khen thưởng đối với địa phương và CTV dân số: trong thời gian qua, để ghi nhận công lao của đội ngũ CTV, mỗi năm Bộ Y tế theo thẩm quyền đã thực hiện việc tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp dân số cho hàng chục ngàn CTV đã có thành tích đóng góp vào sự nghiệp DS-KHHGĐ. Thực hiện phát động phong trào thi đua hằng năm và khen thưởng với các hình thức như tặng Cờ thi đua, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế, đề nghị tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ đối với các địa phương đạt thành tích cao. Bộ Y tế cũng đã bố trí kinh phí từ nguồn của Chương trình Mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ và giao về cho địa phương dành để khen thưởng đối với cá nhân, cộng đồng thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ. Nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành các chính sách khen thưởng tại cộng đồng bằng nguồn ngân sách địa phương đối với CTV và cụm dân cư, xã, phường có thành tích xuất sắc trong thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
Trong thời gian tới Bộ Y tế sẽ có lộ trình, từng bước trình Chính phủ hằng năm có những chính sách khen, thưởng động viên kịp thời những tấm gương CTV dân số và những địa phương đạt thành tích xuất sắc trong công tác DS-KHHGĐ. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Hiện nay tình trạng lao động phổ thông ở các huyện biên giới của tỉnh Hà Giang sang các huyện giáp biên giới của Trung Quốc làm thuê, số lượng lớn (năm 2011 và 4 tháng đầu năm 2012 là 11.397 lượt người), công tác quản lý gặp rất nhiều khó khăn, rủi do thiệt hại của người lao động xảy ra nhiều.
Đề nghị Chính phủ xem xét có chủ trương chính sách đặc thù riêng, đầu tư hỗ trợ cho các xã biên giới trong hoạt động liên quan đến di cư tự do qua biên giới tìm việc làm, phòng chống hoạt động buôn bán người và các loại tội phạm khác; xem xét thành lập Trung tâm Hỗ trợ dịch vụ, truyền thông - Lao động việc làm ở các huyện biên giới nhằm cung cấp thông tin, hỗ trợ nhân dân phòng ngừa và đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, đồng thời hướng dẫn và tổ chức quản lý người dân sang bên kia biên giới lao động, làm thuê. |
Trong những năm qua, do việc qua lại qua biên giới tương đối dễ dàng, việc kinh doanh qua biên giới cũng được đẩy mạnh nên số lượng công dân Việt Nam sang Trung Quốc và công dân Trung Quốc sang Việt Nam để kinh doanh, du lịch rất lớn. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 2012 có trên 8.000 lượt người lao động của tỉnh Hà Giang đi tự do qua biên giới sang Trung Quốc tìm việc làm. Tuy nhiên, gần đây đã nổi lên vấn đề người lao động hai nước sang làm việc tại mỗi bên không theo khuôn khổ pháp luật, chủ yếu là làm việc tại khu vực biên giới tiếp giáp giữa hai nước. Đã xảy ra tình trạng lao động Việt Nam sang làm việc tại các tỉnh của Trung Quốc giáp biên giới với Việt Nam với các điều kiện không đảm bảo, nhiều người bị đẩy hoặc trục xuất về Việt Nam, gây thiệt hại cho người lao động.
Trước tình hình trên, năm 2011, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã thành lập đoàn khảo sát tại các huyện, các xã vùng biên giới thuộc 4 tỉnh biên giới là: Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh để nắm tình hình người lao động dịch chuyển tự do tại vùng biên giới phía bắc. Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tỉnh Hà Giang đàm phán, ký kết thảo thuận hợp tác lao động với các địa phương phía Trung Quốc có nhu cầu sử dụng lao động Việt Nam, thí điểm đưa lao động các huyện biên giới của tỉnh sang làm việc tại địa phương giáp biên giới với Việt Nam của Trung Quốc. Sau thời gian thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá và nhân rộng mô hình trên đối với tất cả các tỉnh biên giới có chung đường biên giới với Trung Quốc.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị UBND tỉnh Hà Giang chỉ đạo các cơ quan chức năng, ban ngành địa phương tăng cường công tác tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện việc xuất nhập cảnh theo quy định. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ sớm phê duyệt đầu tư dự án Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn và sớm phê duyệt dự án nước sinh hoạt hồ treo 4 huyện vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang, nhằm tạo công ăn việc làm và giải quyết nhu cầu nước sinh hoạt cho trên 17.000 hộ dân ở các huyện vùng cao, thôn bản vùng sâu, vùng xa của tỉnh |
1. Về Quy hoạch tổng thể Công viên đá địa chất toàn cầu - Cao nguyên đá Đồng Văn:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có 02 công văn góp ý về nội dung cần chỉnh sửa của Quy hoạch nói trên. Tuy nhiên đến nay các nội dung trên vẫn chưa được chỉnh sửa, đặc biệt là các ý kiến về phân kỳ đầu tư và xác định nguồn vốn thực hiện Quy hoạch; danh mục dự án đầu tư chưa rõ ràng về mức độ ưu tiên và căn cứ dự toán nhu cầu vốn (trong tài liệu Quy hoạch được cung cấp).
Về các nội dung chuyên môn của Quy hoạch: Việc xây dựng Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) theo quy định hiện hành chưa được thực hiện hoặc chưa có báo cáo đầy đủ. Hơn nữa, nếu triển khai Quy hoạch sẽ có tác động lớn đến môi trường tự nhiên nên ngoài việc thực hiện ĐMC còn cần có các dự án bảo vệ môi trường thành phần. Quy hoạch chưa được kết nối với các hoạt động bảo tồn và bảo tàng địa chất của Tổng cục Địa chất, khoáng sản Việt Nam và của cả nước. Các hoạt động duy trì giá trị nguyên thủy của di sản tự nhiên của Công viên đá địa chất toàn cầu là mục tiêu quan trọng nhất của Quy hoạch nhưng chưa thể hiện rõ ưu tiên đặc biệt. Nội dung duy trì và hoàn thiện Hồ sơ đạt danh hiệu Công viên đá địa chất toàn cầu theo quy định của Trung tâm di sản UNESCO để phục vụ theo dõi và báo cáo định kỳ việc bảo tồn và phát huy giá trị chưa được bổ sung, hoàn thiện.
2. Về Đề án hồ chứa nước sinh hoạt 4 huyện vùng cao, núi đá:
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số 6100/BKHĐT-KTNN ngày 14/8/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1435/TTg-KTN ngày 18/9/2012 chấp nhận chủ trương đầu tư Đề án và giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan căn cứ khả năng cân đối vốn ngân sách Trung ương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã bố trí kế hoạch năm 2013 là 108 tỷ đồng để thực hiện Đề án. Tuy nhiên, do các dự án hồ chứa nước sinh hoạt thuộc Đề án là những dự án khởi công mới, đến nay chưa được thực hiện thẩm định nguồn vốn và phần vốn ngân sách trung ương theo quy định tại Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/201 của Thủ tướng Chính phủ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản số 10304/BKHĐT-KTNN ngày 12/12/2012 đề nghị UBND tỉnh Hà Giang chủ động phân bổ 108 tỷ đồng trong kế hoạch năm 2013 nêu trên, trong đó ưu tiên cho các dự án đang đầu tư dở dang để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng, phục vụ sản xuất. Đối với các dự án khởi công mới, đề nghị tỉnh hoàn thiện các thủ tục theo đúng quy định. |
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ nâng mức hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở lên 20 đến 30 triệu đồng/hộ để đảm bảo nhà ở ổn định, an toàn theo quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. |
Việc hỗ trợ nhà ở cho các hộ gia đình nghèo có khó khăn về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian vừa qua đã thực hiện được trên 510.000 hộ. Tuy nhiên, theo báo cáo sơ bộ của các địa phương cả nước thì hiện nay vẫn còn trên 500.000 hộ theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 có khó khăn về nhà ở cần được hỗ trợ để đảm bảo cho họ có cuộc sống an toàn, ổn định. Do vậy, việc cử tri các tỉnh kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho tiếp tục thực hiện hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở là cần thiết.
Về mức hỗ trợ: Theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì những hộ dân thuộc diện đối tượng được Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 6 triệu đồng/hộ và những hộ dân thuộc diện đối tượng đang cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn thì Ngân sách Trung ương hỗ trợ 07 triệu đồng/hộ để xây dựng nhà ở; các địa phương có trách nhiệm hỗ trợ thêm từ Ngân sách địa phương với mức không thấp hơn 20% so với mức Ngân sách Trung ương hỗ trợ. Như vậy, mỗi hộ dân được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ tối thiểu từ 7,2 – 8,4 triệu đồng/hộ; đồng thời, mỗi hộ dân được vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội với mức 8 triệu đồng/hộ. Ngoài mức hỗ trợ và mức vay theo quy định, các địa phương đã tích cực vận động sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, cũng như sự giúp đỡ của anh em, dòng họ và sự đóng góp của các hộ gia đình, do đó hầu hết nhà ở được hỗ trợ đều đảm bảo và vượt quy định về diện tích và chất lượng (diện tích tối thiểu 24 m2, nhà ở đảm bảo “3 cứng”: Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên).
Tuy nhiên, hiện nay, giá vật liệu xây dựng đã tăng khá cao, vì vậy với mức hỗ trợ nói trên sẽ rất khó khăn để có thể xây dựng được căn nhà đảm bảo diện tích và chất lượng như quy định nói trên, đúng như ý kiến cử tri đã nêu.
Để tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương nghiên cứu, xây dựng Đề án và cơ chế, chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011- 2015. Hiện nay, Đề án và dự thảo cơ chế, chính sách hỗ trợ nhà ở, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định, theo đó, mức hỗ trợ có đề xuất tăng lên để phù hợp với giá cả vật liệu xây dựng, đảm bảo yêu cầu mức hỗ trợ của Nhà nước cùng với với các nguồn vốn huy động khác, các hộ nghèo có thể xây dựng được căn nhà có diện tích tối thiểu 24m2, nhà ở đảm bảo “3 cứng”: Nền cứng, khung – tường cứng, mái cứng, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên như quy định tại Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, đủ điều kiện tối thiểu để người dân có nơi cư trú an toàn trong điều kiện bình thường như ý kiến của cử tri.
Riêng đối với Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày 09/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ chỉ qui định về chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2008 – 2010, không quy định hỗ trợ về nhà ở. |
|