Câu hỏi |
Trả lời |
Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo việc vệ sinh môi trường nông thôn, các địa điểm mỏ xả thải, khai thác khoáng sản, khai thác khoáng sản làm vật liệu thông thường (Ngọc Minh; Bạch Ngọc...), gây ảnh hưởng đến sức khỏe, ô nhiễm môi trường, sản xuất nông nghiệp và nguy hiểm cho dân cư tại khu vực xung quanh
|
Hiện nay, việc triển khai xây dựng bãi xử lý rác thải tập trung trên địa bàn các xã, thị trấn hết sức khó khăn, do người dân không đồng tình, phản đối việc xây dựng trên địa bàn. Do vậy, UBND huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo UBND các xã triển khai rà soát, tự xây dựng các khu, điểm tập kết xử lý rác thải đảm bảo vệ sinh môi trường. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn các hộ gia đình nâng cao ý thức, tự thu gom, phân loại, xử lý rác thải sinh hoạt tại hộ gia đình; Xử lý nghiêm các trường hợp vứt rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn. Đồng thời UBND huyện Vị Xuyên đang phối hợp với Ban quản lý Khu kinh tế kêu gọi, hướng dẫn Công ty cổ phần Khoa học và Công nghệ Hamint đầu tư xây dựng nhà máy xử lý rác thải và sản xuất phân bón hữu cơ tại Khu công nghiệp Bình Vàng, thực hiện công tác thu gom, xử lý rác thải, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường trên địa bàn huyện. Trong thời gian tới, UBND huyện tập trung hoàn thiện quy hoạch phát triển huyện Vị Xuyên giai đoạn 2021-2030, trong đó, mỗi xã, thị trấn quy hoạch 01 bãi rác và tiến hành thành lập các HTX dịch vụ để thu gom rác thải sinh hoạt thực hiện chôn lấp và đốt đảm bảo vệ sinh môi trường.
Về lĩnh vực khai thác khoáng sản làm VLXD thông thường: Trên địa bàn xã Bạch Ngọc, xã Thanh Đức không có điểm mỏ khai thác; xã Thanh Thủy chỉ có điểm mỏ khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (cát, đá, sỏi) do vậy không ảnh hưởng đến sức khỏe, sản xuất nông nghiệp và nguy hiểm cho người dân ở xung quanh.
Về lĩnh vực khai thác khoáng sản kim loại trên địa bàn xã Ngọc Minh làm ảnh hưởng đến nhân dân xã Bạch Ngọc: Thực hiện văn bản số 2848/UBND-KTTH ngày 15/7/2021 của UBND tỉnh về việc giải quyết triệt để nội dung phản ánh khai thác khoáng sản mangan tại xã Ngọc Minh, huyện Vị Xuyên gây ô nhiễm môi trường. UBND huyện đã tiến hành kiểm tra thực địa, kết quả kiểm tra cho thấy hoạt động khai thác khoáng sản của Công ty TNHH Ban Mai và Công ty TNHH Tây Giang gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và đời sống của nhân dân 04 thôn trên địa bàn xã Bạch Ngọc (thôn Diếc, thôn Phai, thôn Mường, thôn Ngọc Lâm) với diện tích lúa bị ảnh hưởng là 33 ha, cây hoa màu khác là 9,5 ha, thiệt hại về nuôi trồng thủy sản là 15 hộ, chiều dài kênh mương bị ảnh hưởng do bùn đất vùi lấp là 5000 mét.
Trên cơ sở kết quả kiểm tra, UBND huyện đã tổ chức làm việc với Công ty TNHH Ban Mai và Công ty TNHH Tây Giang thống nhất việc hỗ trợ thiệt hại cho người dân xã Bạch Ngọc bị ảnh hưởng do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra. Đến nay, 02 Công ty đã hoàn thành việc hỗ trợ kinh phí thiệt hại cho người dân xã Bạch Ngọc với tổng số tiền 489.622.371 đồng/254 hộ gia đình/04 thôn. |
Đề nghị tỉnh quan tâm chỉ đạo đầu tư trạm thu phát sóng: Hiện nay 8 thôn của xã Thượng Sơn và 3 thôn: Ngọc Sơn; Khuẩy Dò, Khuẩy Vài, Bạch Ngọc chưa có sóng điện thoại
|
(1) Giải pháp tối ưu mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ
Xã Thượng Sơn: Đã thực hiện các giải pháp điều chỉnh góc phương vị, tăng công suất các trạm 2G/3G/4G trong khu vực. Đối với dịch vụ băng rộng cố định, hiện đã có hạ tầng đến xã nhưng khách hàng tại các thôn chưa có nhu cầu sử dụng: Xã Bạch Ngọc: Không thực hiện các giải pháp tối ưu, điều chỉnh góc phương vị, tăng công suất các trạm 2G/3G/4G đang hoạt động tại xã và các xã lân cận. Do các thôn có địa hình. Đối với dịch vụ băng rộng cố định, hiện đã có hạ tầng đến xã nhưng chưa cung cấp dịch vụ đến 03 thôn Ngọc Sơn, Khẩy Dò, Khuẩy Vài.
Thực trạng mạng lưới và kết quả đo kiểm chất lượng dịch vụ
Mạng Viettel: Hạ tầng mạng lưới: hiện có 03 vị trí trạm BTS (trạm 2G/3G/4G) tại trung tâm xã Thượng Sơn và xã Bạch Ngọc. Đánh giá chất lượng dịch vụ như sau: Tại xã Thượng Sơn: 12/12 thôn đã được cung cấp dịch vụ điện thoại, tuy nhiên 07 thôn chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ điện thoại, Internet là Bó Đướt, Cao Bành, Đán Khao, Hạ Sơn, Khuổi Luông, Lùng Vùi, Bản Khoét. Tại xã Bạch Ngọc: 09/09 thôn đã được cung cấp dịch vụ, trong đó 06 thôn Khuổi Dò và Ngọc Sơn, Ngọc Bình, Ngọc Lâm, Mường, Diếc chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ điện thoại, Internet di động.
Mạng Vinaphone: Hạ tầng mạng lưới: hiện có 03 vị trí trạm BTS (trạm 2G/3G/4G) tại trung tâm xã Thượng Sơn và xã Bạch Ngọc. Đánh giá chất lượng dịch vụ như sau: Tại xã Thượng Sơn: các thôn chưa có hoặc chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ điện thoại, Internet là Bó Đướt, Bản Khoét, Lùng Vùi, Nậm An: Tại xã Bạch Ngọc: 02 thôn Khuổi Dò và Ngọc Sơn chưa có hoặc chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ điện thoại, Internet di động.
Đánh giá chung chất lượng sóng di động: Hạ tầng mạng lưới, tại 02 xã có 08 trạm thu phát sóng (Viettel 03 trạm; Vinaphone 03 trạm, Mobifone 02 trạm).
Tỷ lệ phủ sóng tại xã Thượng Sơn 2G đạt 97.31%, Internet 3G, 4G đạt 43%. 04 thôn sóng kém, chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ điện thoại, Internet là Bó Đướt, Bản Khoét, Lùng Vùi, Nậm An.
Tỷ lệ phủ sóngtại xã Bạch Ngọc 2G đạt 90%, Internet 3G, 4G đạt 76%. 02 thôn sóng kém, chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ điện thoại, Internet là thôn Khuổi Dò và Ngọc Sơn.
Kế hoạch, phương án bổ sung trạm phát sóng
Viễn thông Hà Giang: đã lập kế hoạch triển khai và đang xây dựng 01 trạm thu phát sóng thông tin di dộng tại xã Thượng Sơn, dự kiến sẽ hoàn thành việc lắp đặt thiết bị và phát sóng trong năm 2021. Khi phát sóng sẽ bảo đảm cung cấp dịch vụ điện thoại, Internet đến 12/12 thôn. Chưa có giải pháp xây dựng trạm và phủ sóng tại 02 thôn của xã Bạch Ngọc: Viettel Hà Giang đã có kế hoạch triển khai xây dựng 02 trạm phát sóng lắp thiết bị 2G, 4G tại xã Thượng Sơn và 01 trạm phát sóng lắp thiết bị 2G, 4G. tại xã Bạch Ngọc, dự kiến năm 2022 sẽ triển khai đầu tư xây dựng |
Đề nghị tỉnh quan tâm chỉ đạo đầu tư công trình cấp điện lưới Quốc gia cho xã Bạch Ngọc, hiện nay vẫn còn 3 thôn bản chưa có điện (trong đó thôn Ngọc Sơn; Khuẩy Dò, Khuẩy Vài)
|
Xã Bạch Ngọc, huyện Vị Xuyên có 09 thôn. Tổng số hộ dân có 913 hộ trong đó có 276/913 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, tỷ lệ 76,8%, số hộ chưa được sử dụng điện 190/913, tỷ lệ 20,8%, có 22 hộ dân dùng điện từ nguồn máy điện mini tỷ lệ 2,4%. Trong đó: (1) Thôn Ngọc Sơn tổng số có 102 hộ dân, số hộ được sử hộ điện lưới quốc gia 10 hộ (các hộ dân tự kéo điện lưới quốc gia), có 92 hộ chưa được sử dụng điện; (2) Thôn Khuẩy Dòtổng số có 63 hộ dân, số hộ được sử hộ điện lưới quốc gia 13 hộ (các hộ dân tự kéo điện lưới quốc gia), có 50 hộ chưa được sử dụng điện; (3) Thôn Khuẩy Vàitổng số có 58 hộ dân, số hộ được sử hộ điện lưới quốc gia 25 hộ (các hộ dân tự kéo điện lưới quốc gia) do tự kéo điện, tiết diện dân dẫn nhỏ, khoảng cách xa, tổn thất điện áp lớn; không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và còn có 33 hộ chưa được sử dụng điện.
Về quy mô, khối lượng và giá trị đầu tư xây dựng cho các thôn Ngọc Sơn; Khuẩy Dò, Khuẩy Vài đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1775/QĐ-UBND ngày 02/10/2020 về Phê duyệt điều chỉnh Dự án Cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách trung ương, giai đoạn 2013-2020. Tuy nhiên đến thời điểm hiện nay Chính phủ chưa bố trí được nguồn vốn nên Chủ đầu tư (Ban quản lý dự án ĐTXD công trình công nghiệp và dân dụng tỉnh Hà Giang) chưa tổ chức triển khai được.
Trong giai đoạn 2021-2025 do nguồn vốn ngân sách Trung ương và địa phương còn khó khăn, hạn chế. Trước mắt căn cứ vào tình hình thực tế đề nghị UBND huyện Hoàng Su Phì xem xét cân đối các nguồn vốn từ ngân sách huyện, các chương trình mục tiêu,... hàng năm, ưu tiên đầu tư mới các trạm biến áp, tuyến đường dây cấp điện cho các hộ dân, theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm để sớm có điện phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. |
Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo đầu tư công trình cấp điện lưới Quốc gia cho các thôn nội địa, giáp biên, thôn vùng cao (xóm Hạ Sơn, Ha Hán và các thôn Cốc Mè, Nặm Ngặt, Lùng Đoóc, Cốc Nghè)
|
Tổng số hộ trên địa bàn xã Thanh thủy, huyện Vị Xuyên có 662 hộ, trong đó có 447/615 hộ sử dụng điện lưới quốc gia đảm bảo an toàn đạt 67,52%, số hộ sử dụng điện nước không đảm bảo theo quy định là 215/662 hộ, tỷ lệ 32,48%.
Trong đó: (1) Thôn Giang Nam tổng số có 363 hộ dân, số hộ được sử hộ điện lưới quốc gia 301 hộ, có 62 hộ dân dùng điện từ các nguồn (máy điện mini); (2) Thôn Nà Sáttổng số có 62 hộ dân đã được sử dụng điện lưới quốc gia; (3) Thôn Thanh Sơn tổng số có 363 hộ dân, số hộ được sử hộ điện lưới quốc gia 301 hộ, có 62 hộ dân dùng điện từ nguồn máy điện mini; (4) Thôn Cốc Nghè tổng số có 48 hộ dân, số hộ được sử hộ điện lưới quốc gia 05 hộ, có 43 hộ dân dùng điện từ nguồn máy điện mini; (5) Thôn Lùng Đoóc tổng số có 31 hộ dân đều sử dụng điện từ các nguồn máy điện mini; (6) Thôn Nà Toong tổng số có 19 hộ dân đều sử dụng điện từ nguồn máy điện mini; (7) Thôn Nặm Ngặt tổng số có 60 hộ dân đều sử dụng điện từ nguồn máy điện mini.
Công trình cấp điện thôn Giang Nam, xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên do UBND huyện Vị Xuyên làm Chủ đầu tư, hiện nay đang tổ chức triển khai, thực hiện các bước đầu tư, xây dựng. Dự kiến hoàn thành đóng điện đưa vào sử dụng trong quý IV/2021 đến đầu Quý I/2022.
Các công trình cấp điện thôn Nặm Ngặt, thôn Lùng Đoóc, xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên do Ban quản lý dự án ĐTXD công trình Dân dụng và Công nghiệp làm Chủ đầu tư hiện nay đang tổ chức triển khai, thực hiện các bước đầu tư, xây dựng. Dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng trong Quý IV/2021. Công trình cấp điện thôn Cốc Nghè, xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, đang hoàn thiện các thủ tục đóng điện, dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng trong Quý IV/2021 đến đầu Quý I/2022.
Căn cứ nội dung Kế hoạch số 44/KH-UBND ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện 08 xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2021. Trong đó có xã Thanh Thủy huyện Vị Xuyên theo Kế hoạch sẽ về đích NTM trong năm 2021. Sở Công Thương đã đôn đốc Chủ đầu tư (Ban quản lý dự án ĐTXD công trình Dân dụng và Công nghiệp, UBND huyện Vị Xuyên) đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình cấp điện đảm bảo xã Thanh Thủy về đích NTM trong năm 2021; có văn bản hướng dẫn và đề nghị UBND huyện Vị Xuyên chỉ đạo phòng ban chuyên môn phối hợp Điện lực Thành phố, UBND xã hướng dẫn các hộ dân thường xuyên duy tu, bảo dưỡng, thay thế hệ thống sau công tơ đảm bảo kỹ thuật an toàn theo quy định. |
Đề nghị tỉnh quan tâm chỉ đạo việc bàn giao công trình điện (thuộc Chương trình 135 và Bộ Quốc Phòng làm Chủ đầu tư) cho ngành điện quản lý, hiện nay chi phí phát sinh cao, hỏng hóc, ... gây ảnh hưởng đến đời sống nhân dân
|
Căn cứ Quyết định số 41/2017/QĐ-TTg ngày 15/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định trình tự, thủ tục điều chuyển công trình điện được đầu tư bằng vốn nhà nước sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam quản lý quy định: UBND tỉnh Hà Giang có trách nhiệm tổng hợp, thực hiện trình tự thủ tục, lập hồ sơ điều chuyển đối với các công trình điện đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước đối với các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương quản lý (đối với công trình điện thuộc chương trình 135 do các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh quản lý).
Đối với công trình điện do Bộ Quốc phòng làm chủ đầu tư do các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện, quản lý, việc lập hồ sơ thực hiện điều chuyển do Bộ Quốc phòng thực hiện.
Năm 2017 đến nay, UBND huyện Vị Xuyên đã đề nghị điều chuyển 02 công trình điện gồm: Cấp điện thôn Làng Má, xã Đạo Đức và cấp điện thôn Ngài Là Thầu, xã Lao Chải, trong đó công trình cấp điện thôn Làng Má UBND tỉnh đã có văn bản báo cáo Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chuyển, Công trình Ngài Là Thầu, UBND huyện Vị Xuyên đang hoàn thiện hồ sơ để tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh.
Năm 2021, UBND huyện tổng hợp đề nghị bàn giao 10 công trình, hiện nay huyện Vị Xuyên đang khẩn trương hoàn thiện hồ sơ quyết toán các công trình đề nghị bàn giao sang ngành điện quản lý theo quy định.
Sau khi UBND huyện Vị Xuyên hoàn thiện hồ sơ, Sở Tài chính sẽ tổng hợp thực hiện kiểm kê, xác định giá trị tài sản theo quy định, cụ thể: Kiểm kê, xác định giá trị tài sản các công trình điện và hoàn thành quý IV/2021; Tổng hợp báo cáo UBND tỉnh xem xét, báo cáo Bộ Tài chính Quý IV/2021. |
Đề nghị tỉnh tiếp tục quan tâm, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Rà phá bom mìn vật liệu nổ phục vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ hy sinh trong chiến tranh Bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Hà Giang tại 03 xã (Thanh Thủy, Thanh Đức và Xín Chải) để nhân dân có đất canh tác, sản xuất.
|
Qua kiểm tra các dự án rà phá bom mìn, vật nổ trên địa bàn các xã biên giới huyện Vị Xuyên, đối chiếu với hồ sơ ô nhiễm bom mìn vật nổ tại huyện Vị Xuyên. Dự án rà phá bom mìn vật nổ còn sót lại sau chiến tranh trên địa bàn tỉnh Hà Giang theo chương trình 504 của Chính phủ, giai đoạn 2012 - 2015; 2016-2020; 2021-2025 và Dự án: Rà phá bom mìn, vật nổ phục vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ hy sinh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Hà Giang năm 2020 và các dự án khác. Về cơ bản đã rà phá xong diện tích ô nhiễm bom mìn, vật nổ trên địa bàn xã Thanh Thủy, xã Thanh Đức và xã Xín Chải huyện Vị Xuyên, đến khoảng cách 100m tính từ đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc về phía ta. Các dự án khi hoàn thành đã bàn giao cho UBND các xã Thanh Thủy, xã Thanh Đức và xã Xín Chải; đồng thời thực hiện thông báo cho nhân dân trong khu vực biết nghiêm cấm phát rừng, làm nương, làm ruộng trong khoảng cách 100m tính từ biên giới Việt Nam - Trung Quốc về phía ta. |
Đề nghị tỉnh có cơ chế chính sách tiếp tục thực hiện công tác dồn điền đổi thửa
|
Ngày 12/8/2021 Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản số 2224/STNMT-QLTNĐ đề nghị UBND huyện Vị Xuyên báo cáo tình hình thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa trên địa bàn xã Bạch Ngọc, huyện Vị Xuyên. Ngày 19/8/2021 UBND huyện Vị Xuyên đã có Báo cáo số 602/BC-UBND tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Bạch Ngọc, huyện Vị Xuyên. Sở Tài nguyên Môi trường đã có văn bản số 3173/STNMT-ĐĐQH ngày 02/11/2021 hướng dẫn huyện Vị Xuyên và chỉ đạo Văn phòng Đăng ký đất đai thực hiện việc đo đạc chỉnh lý và cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất sau khi dồn điền đổi thửa để tạo điều kiện cho người sử dụng đất phát triển kinh tế gia đình. |
Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo giải quyết dứt điểm đối với dự án trồng rừng 327 và 661 (do nhà nước hỗ trợ) vẫn đang triển khai, chưa kết thúc thực hiện dự án dẫn đến việc người dân không có đất sản xuất, canh tác
|
Do mục tiêu thực hiện Chương trình 327 và dự án 661 là phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Vì vậy việc lập hồ sơ trồng rừng, phương pháp, cách thức triển khai cũng như việc quản lý hồ sơ khi đó chưa được chặt chẽ, dẫn tới đến nay hồ sơ hầu như bị thất lạc vì vậy không xác định được chủ sở hữu rừng (chủ yếu là lập danh sách các hộ trồng rừng và hợp đồng trồng rừng, đa số không có thiết kế, nghiệm thu và hiện nay cơ bản hồ sơ đã bị thất lạc, không xác định được chủ sở hữu rừng). Dự án 327 (bắt đầu từ năm 1992), dự án 661 (bắt đầu từ năm 1998) đến nay đã trên 20 năm, các Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, Lâm trường đã thay đổi ranh giới và tổ chức nhưng hợp đồng, khế ước vẫn chưa được thanh lý. Các văn bản, quy định cụ thể quyền lợi, nghĩa vụ các bên trước đây hiện đã hết hiệu lực…Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc khai thác đối với diện tích rừng thuộc Chương trình 327, dự án 661 trước đây. Thường trực UBND tỉnh đã chỉ đạo rà soát, đến nay trên địa bàn tỉnh còn 3 huyện có khoảng 5.993,2 ha (Vị Xuyên 1.087,64 ha, Hoàng Su Phì 2.116 ha, Xín Mần 2.789,56ha) rừng trồng thuộc Chương trình 327, dự án 661 và rừng trồng trước năm 1990 còn vướng mắc về khai thác diện tích rừng trồng (các huyện còn lại không có kiến nghị đề xuất).
Theo quy định của Luật Lâm nghiệp năm 2017 và Thông tư 27/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản, để có thể khai thác được diện tích rừng nêu trên (theo ý kiến kiến nghị của cư tri) trước hết cần phải xác định được chủ sở hữu rừng, gắn với xác định chủ sở hữu, chủ quản lý diện tích đất rừng thuộc Chương trình 327, dự án 661 để có phương án quản lý theo quy định của pháp luật. Đảm bảo không có sự tranh chấp, khiếu nại giữa thôn với thôn, giữa các hộ gia đình trong quá trình khai thác rừng trồng và quản lý, sử dụng đất rừng.
Để giải quyết được các nội dung các vướng mắc nêu trên theo quy định của pháp luật. UBND tỉnh đã có Văn bản số 4109/UBND-KTTH ngày 14/10/2021 giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị có liên quan lập đề cương, dự toán trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để điều tra, xác định cụ thể diện tích, ranh giới, hiện trạng rừng, loài cây trồng, trữ lượng; xác định cụ thể chủ sở hữu rừng, lập bản đồ quản lý rừng thuộc Chương trình 327, dự án 661 nay là rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh.
Sau khi thực hiện hoàn thành các nội dung trên các huyện sẽ thực hiện trình tự, thủ tục khai thác diện tích thuộc Chương trình 327, dự án 661 theo quy định hiện hành |
Đề nghị tỉnh xem xét nhanh chóng giải quyết dứt điểm việc HTX Ngàn Hoa, Linh Quý được cho thuê đất thực hiện dự án trồng rừng từ năm 2009 đến nay
|
UBND tỉnh đã tiến hành thanh tra và có kết luận về thanh tra toàn diện việc chấp hành các quy định của pháp luật trong quá trình triển khai, thực hiện Dự án Trồng rừng sản xuất của Hợp Tác xã Ngàn Hoa và Công ty TNHH Linh Quý. Sau khi Kết luận thanh tra được công bố, các Công ty, HTX có đơn thư khiếu nại, kiến nghị về một số nội dung thu hồi đất đai của dự án tại Kết luận Thanh tra. UBND tỉnh đã giao cho tổ công tác (do Thanh tra tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư cùng các ngành chức năng liên quan) tham mưu giải quyết đơn thư kiến nghị của tổ chức, cá nhân liên quan đến Kết luận thanh tra của Chủ tịch UBND tỉnh đối với các dự án trồng rừng kinh tế. Sau khi có kết quả xác minh cụ thể của tổ công tác, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo giải quyết dứt điểm việc HTX Ngàn Hoa, Linh Quý được cho thuê đất trồng rừng từ năm 2009 đến nay. |
Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo đối với việc thực hiện quy hoạch nông thôn, quy hoạch xã trên địa bàn tỉnh; tránh gây chồng chéo, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...
|
Đối với xã Thượng Sơn, xã Bạch Ngọc hiện đã có quy hoạch Nông thôn mới được phê duyệt, quy hoạch sử dụng đất được lập dựa trên quy hoạch nông thôn mới. Hiện việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ đồng loạt theo Kế hoạch số 80/KH-UBND, ngày 15/4/2013 của UBND tỉnh.
Xã Thanh Thủy, Thanh Đức nằm trong quy hoạch khu kinh tế tỉnh đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Hiện xã Thanh Thủy đang tiếp tục rà soát để điều chỉnh quy hoạch NTM để đáp ứng nhu cầu, xu hướng phát triển của xã.Qua kiểm tra xã Thanh Thủy chưa hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ đồng loạt theo kế hoạch số 80/KH-UBND, ngày 15/4/2013 của UBND tỉnh.Trong thời gian tới UBND tỉnh tiếp tục đôn đốc UBND huyện Vị Xuyênkhẩn trương phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ trong thời gian sớm nhất đảm bảo quyền lợi của người dân. |
Đề nghị tỉnh có cơ chế đặc thù hỗ trợ thực hiện tiêu chí số 2 - về giao thông trong việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM (hiện nay chỉ hỗ trợ xi măng)
|
Đối với việc đầu tư hạ tầng giao thông nông thôn trong xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2017-2020 thực hiện cơ chế đặc thù theo Quyết định 870/QĐ-UBDN ngày 17/5/2017 của UBND tỉnh về ban hành quy định quản lý, thanh toán và quyết toán kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo cơ chế đặc thù đối với dự án đầu tư xây dựng thuộc các chương trình MTQG giai đoạn 2017–2020; Quyết định số 250/QĐ-UBND ngày 20/02/2020 của UBND tỉnh về ban hành quy định quản lý, thanh toán và quyết toán kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo cơ chế đặc thù đối với dự án đầu tư xây dựng thuộc các chương trình MTQG năm 2020, thực hiện theo Nghị quyết 116/2016/NQ-CP ngày 02/12/2016 của Chính phủ về Cơ chế đặc thù trong quản lý đầu tư xây dựng đối với một số dự án thuộc các chương trình MTQG giai đoạn 2016–2020 hiện nay đã hết giai đoạn áp dụng.
Giai đoạn 2021–2025 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về XD NTM nói chung và thực hiện đầu tư xây dựng tiêu chí đường giao thông nói riêng hiện Chính phủ chưa ban hành các quy định cụ thể. Để chủ động trong công tác triển khai thực hiện tại địa phương về làm đường bê tông giao thông nông thôn năm 2021, UBND tỉnh đã ban hành văn bản số 2068/UBND-KTTH ngày 29/6/2021 về việc triển khai Kết luận số 54-TB/TU ngày 04/6/2021 của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy về chương trình làm đường bê tông nông thôn mới, với nội dung chỉ đạo “Quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm chỉ đạo về cơ chế hỗ trợ trong thực hiện đường bê tông nông thôn theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong đó, ngân sách tỉnh chỉ cung ứng xi măng theo kế hoạch đăng ký của địa phương đến tận chân công trình, không hỗ trợ kinh phí để mua vật liệu khác và nhân lực do địa phương chủ động huy động đóng góp của nhân dân”.
Tuy nhiên qua quá trình triển khai thực hiện và đánh giá những kết quả đạt được, khó khăn vướng mắc tại các huyện, xã trên địa bàn tỉnh trong việc cân đối ngân sách, huy động xã hội hoá và huy động nguồn lực từ nhân dân đóng góp còn hạn chế, dẫn tới khối lượng và tiến độ thực hiện bê tông hoá GTNT còn chậm so với Kế hoạch năm 2021. Ngày 23/9/2021, UBND tỉnh đã ban hành văn bản số 3781/UBND-KTTH, về việc triển khai Kết luận số 158-KL/TU ngày 13/9/2021 của Thường trực Tỉnh ủy, “Giao Sở Tài chính chủ trì, phối hợp cùng Sở Giao thông vận tải, Văn phòng điều phối nông thôn mới tỉnh và đơn vị có liên quan: Trên cơ sở hướng dẫn chung của Trung ương và điều kiện thực tiễn địa phương, nghiên cứu, tham mưu đề xuất với UBND tỉnh để báo cáo Ban thường vụ Tỉnh xem xét cho chủ trương trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành cơ chế, chính sách mới về hỗ trợ làm đường bê tông nông thôn, giai đoạn 2021–2025” (ngày 14/10/2021 Sở Tài chính đã tham mưu văn bản số 2007/STC-TCĐT ngày 14/10/2021 về việc lùi thời gian ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ làm đường bê tông GTNT giai đoạn 2021–2025. Do phải chờ Chính phủ ban hành quy định mới về chính sách thực hiện đầu tư Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2021–2025);
Văn bản số 200/TB-UBND ngày 27/10/2021 của UBND tỉnh về Thông báo kết luận của Đồng chí Hoàng Gia Long – Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh tại Hội nghị giao ban tiến độ thực hiện xây dựng NTM 08 xã thuộc kế hoạch xây dựng đạt chuẩn năm 2021, theo đó Tỉnh giao Sở Tài chính chủ trì, phối hợp cùng VP ĐPNTM tỉnh, Sở GTVT, các huyện, các ngành liên quan tham mưu, đề xuất cơ chế thực hiện thí điểm và nguồn kinh phí thực hiện đối với loại đường 3,5m trở lên. Hiện các Ngành đang phối hợp triển khai thực hiện.
Triển khai chương trình làm đường bê tông nông thôn mới UBND tỉnh đã ban hành văn bản số 2068/UBND-KTTH ngày 29/6/2021 về việc triển khai Kết luận số 54-TB/TU ngày 04/6/2021 của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy về chương trình làm đường bê tông nông thôn mới, với nội dung chỉ đạo “Quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm chỉ đạo về cơ chế hỗ trợ trong thực hiện đường bê tông nông thôn theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong đó, ngân sách tỉnh chỉ cung ứng xi măng theo kế hoạch đăng ký của địa phương đến tận chân công trình, không hỗ trợ kinh phí để mua vật liệu khác và nhân lực do địa phương chủ động huy động đóng góp của nhân dân”.
Việc tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách mới về hỗ trợ làm đường bê tông nông thôn, giai đoạn 2021 - 2025, phải chờChính phủ, các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn cụ thể. Đối với loại đường trục xã có chiều rộng mặt đường lớn hơn hoặc bằng 3,5 mét hiện UBND tỉnh đã giao các Sở, ngành liên quan tham mưu thực hiện thí điểm tại 03 xã trên địa bàn huyện Bắc Quang và Quang Bình, trình Thường trực Tỉnh ủy cho ý kiến trước khi tổ chức thực hiện thí điểm và nhân rộng mô hình khi đủ điều kiện về nguồn lực. |
|