quyết tâm thực hiện thắng lợi NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG KHÓA XVII, NHIỆM KỲ 2020 - 2025 

Danh sách khóa

Các bộ, ngành trả lời

2.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ NHẤTQUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh, nâng mức lương tối thiểu vùng IV lên tương đương với mức lương tối thiểu vùng I, vùng II (theo quy định của Nghị định số 122/2015/NĐ-CP, ngày 14/11/2015 của Chính phủ), để các doanh nghiệp, hợp tác xã ở các địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa thu hút người lao động có tay nghề cao, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh.
 Thực hiện quy định tại điều 91 của Bộ Lao động, Chính phủ đã quy định địa bàn áp dụng tiền lương tối thiểu thành 4 vùng theo địa giới hành chính cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Việc phân vùng dựa vào điều kiện kinh tế xã hội, mức sống dân cư, thị trường lao động và mức tiền lương trên thị trường lao động của từng vùng gửi về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội  để tổng hợp, báo cáo Chính phủ điều chỉnh cho phù hợp. Qua quá trình thực hiện, nhìn chung việc phân vùng các địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu theo 4 vùng về cơ bản phù hợp với thực tế của các địa phương, vì vậy, trường hợp cử tri tỉnh Hà Giang thấy địa bàn áp dựng tiền lương tối thiểu nào không phù hợp thì đề nghị báo cáo UBND tỉnh Hà Giang tiến hành rà soát và gửi ý kiến đề xuất điều chỉnh về Bộ Lao động thương binh xã hội để tổng hợp báo cáo Chính phủ điều chỉnh trong thời gian tới.
1.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ NHẤTQUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét kéo dài thời gian được hưởng phụ cấp thu hút theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ; đồng thời xem xét sửa đổi, bổ sung đối tượng cán bộ, công chức, viên chức ở các thị trấn của huyện 30a được hưởng phụ cấp thu hút theo quy định của Nghị định này; vì cán bộ, công chức, viên chức công tác ở các thị trấn thuộc huyện 30a, tuy có thuận lợi hơn về cơ sở vật chất, nhưng đời sống vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
* Về thời gian hưởng phụ cấp thu hút và chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn:
Theo quy định tại khoản 5 điều 6 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang thì phụ cấp thu hút áp dụng đối với cán bộ công chức, viên chức đến làm việc ở những vừng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn, gồm 4 mức: 20%, 30%, 50% và 70% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có), thời gian hưởng phụ cấp thu hút từ 3 đến 5 năm. Để đồng bộ với quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP nêu trên thì tại Điều 4 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lwujc lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đã quy định thời gian hưởng phụ cấp thu hút không quá 5 năm với mức 70% đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Việc quy định thời gian hưởng nêu trên  phù hợp với ý nghĩa thiết kế của chế độ phụ cấp thu hút.
Ngoài chế độ phụ cấp thu hút thì cán bộ, công chức, viên chức được hưởng phụ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gồm 03 mức: từ đủ 05 năm đến dưới 10 năm được hưởng mức 0,5 mức lương cơ sở; từ đủ 10 năm đến dưới 15 năm được hưởng 0,7 mức lương cơ sở, từ đủ 15 năm trở lên được hưởng 1,0 mức lương cơ sở.
Cùng với chế độ phụ cấp thu hút và phụ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Nghị định số 116/2010/NĐ-CP còn quy định: trợ cấp tham quna, học tập, bỗi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; trợ cấp tiền mua và vận chuyển nước ngọt; trợ cấp lần đầu và trợ cấp chuyển vùng; trợ cấp một lần khi chuyển công tác ra khỏi vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc nghỉ hưu và chế độ thanh toán tiền tàu xe đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lĩnh vực vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
* Về bổ sung thị trấn thuộc huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP được áp dụng phụ cấp thu hút theo Nghị định số 116/2010/NĐ-CP:
Căn cứ thực trạng phát triển kinh tế - xã ội của thị trấn và các xã thuộc huyện nghèo, tại Khoản 2 Mục III Phần 2 Nghj quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về CHương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo đã quy định tất cả các xã (trừ thị trấn) thuộc các huyện nghèo được hưởng các cơ chế, chính sách quy định như đối với các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135 giai đoạn II.
Căn cứ ý kiến của cử tri và ý kiến tại phiên giải trình ngày 13 tháng 1 năm 2017 với Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa XIV, Bộ Nội vụ đã có công văn số 391/BNV-TL ngày 23 tháng 1 năm 2017 báo cáo Thủ tướng Chính phủ giao bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ y tế và các cơ quan liên quan tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện 03 năm Nghị định của Chính phủ, gồm: Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đã được sửa đổi, bổ sug tại Nghị định số 19/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 2 năm 2013 của Chính phủ; Nghị định số 64/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để trình Chính phủ ban hành Nghị định mới quy định chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trong năm 2017.

3.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ NHẤTQUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ tiếp tục đầu tư nguồn lực tập trung cho Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh nghèo, biên giới và xem xét điều chỉnh cơ chế hỗ trợ hộ nghèo thành chính sách tín dụng hộ nghèo hợp lý, nhằm khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại, phát huy tinh thần trách nhiệm vượt khó vươn lên của nhân dân.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được phê duyệt với tổng kinh phí 41,449 tỷ đồng, trong đó trên 90% kinh phí hỗ trợ cho các địa bàn khó khăn (huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngàng ven biển và hải đảo, xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, thôn bản đặc biệt khó khăn). Đây là quyết tâm lớn của Chính phủ đẩy nhanh tốc độ giảm ngèo của các vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, nhóm dân cư.
Theo chỉ đạo của Quốc hội tại Nghị định số 76/2014/QH13 ngày 24/6/2014 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo đến năm 2020, Chính phủ đã tập trung công tác rà soát, đề xuất, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách giảm nghèo theo hướng giảm dần các chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện  (vay vốn tín dụng ưu đãi), đến nay nhiều chính sách đã tích cực hợp và sửa đổi phù hợp đảm bảo hỗ trợ có hiệu quả cho đối tượng, khắc phục tư tưởng trông chờ, ỉ lại như chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo đã được thực hiện 100% nguồn vốn tín dựng; chính sách giáo dục, nhóm chính sách dân tộc thiểu số cũng được tích hợp lại; bãi bỏ chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo quyết định 102/2009/QĐ-TTg.
4.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ NHẤTQUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm đầu tư, thi công hoàn thành dự án nâng cấp quốc lộ 4 đoạn nối từ tỉnh Hà Giang đi tỉnh Lào Cai (do Ban quản lý dự án 6 thuộc Bộ Giao thông vận tải, làm đại diện chủ đầu tư), đã thi công dở dang từ năm 2009 đến nay vẫn chưa hoàn thành, gây lãng phí, thiệt hại ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, kinh doanh của nhân dân.
Năm 2012 phòng Nội vụ huyện Mèo Vạc, UBND xã Lũng Chinh, huyện Mèo Vạc và UBND xã Mậu Long, huyện Yên Minh hiệp thương điều chỉnh địa giới hành chính bản theo đồ 364 đã thống nhất điều chuyển 102,2ha đất rừng tự nhiên từ thôn Bản Mà, xã Mậu Long về xã Lũng Chinh quản lý. Tuy nhiên đến nay UBND xã Mậu Long chưa nhận được bản đồ điều chỉnh địa giới hành chính hiệp thương năm 2012, nhân dân thôn Bản Mà chưa nắm được địa giới hành chính điều chỉnh nên thường xuyên xảy ra tranh chấp, gây mất ổn định an ninh trật tự.
Đề nghị tỉnh xem xét điều chỉnh 102,2ha đất rừng tự nhiên hiệp thương năm 2012 trên về xã Mậu Long, huyện Yên Minh quản lý.

5.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ NHẤTQUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Bộ Quốc phòng sớm quan tâm đầu tư thi công các tuyến đường vành đai, tuần tra biên giới của tỉnh Hà Giang để thuận lợi cho công tác bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Về việc đầu tư xây dựng đường tuần tra biên giưới (TTBG) thuộc tỉnh Hà Giang, Bộ quốc phòng đã triển khai xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng 20km đường TTBG nhưng chưa đủ tiêu chuẩn đường TTBG do triển khai xây dựng trước khi đề án được Chính phủ phê duyệt
Giai đoạn II, Bộ quốc phòng đã đề nghị xây dựng đường TTBG trên địa bàn Hà Giang 70km. Tuy nhiên, do nguồn vốn khó khăn nên đến nay Quốc hội và Chính phủ chưa cân đối được nguồn vốn để triển khai xây dựng.
CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ HAI QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành quy chế (mẫu) về hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp cho phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Vì hiện nay hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp vẫn thực hiện theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI và Quyết định số 75/2006/QĐ-TTg ngày 12/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ; một số nội dung trong Nghị quyết và Quyết định không còn phù hợp, đã lỗi thời do Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã hết hiệu lực.
* Việc ban hành Quy chế nẫu về hoạt động của HĐND các cấp
 Tại văn bản số 71/UBTVQH14-CTĐB ngày 9/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về việc ban hành Nghị quyết về Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và nội quy  kỳ họp Hội đồng nhân dân gửi Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh đac nêu rõ: “trong quá trình soạn thảo Luật tổ chức chính quyền địa phương, các quy định về nhiệm vụ, quyền ahn trong quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân (ban hành kèm theo nghị quyết số 753/NQ-UBTVQH11) đã được quy định ngay ở trong luật; nhiều nội dung liên quan đến trình tự, thủ tjc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cũng đã được quy định cụ thể  trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. Do đó, trong luật tổ chức chính quyền địa phương không giao Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
Trong quá trình hoạt động, căn cứ vào tình hình của địa phương, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành Nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh. Tuy nhiên, khi bna hành Nghị quyết quy định về Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và Nội quy kỳ họp Hội đồng nhân dân cần xem xét sự phù hợp với Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật tiếp công dân và các văn bản có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân”.
* Việc ban hành Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân các cấp
Trong quá trình soạn thảo Luật tổ chức chính quyền địa phương, các quy định trong Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (ban hành kèm theo Quyết định số 53/2006/QĐ-TTg, Quyết định số 75/2006/QĐ-TTg và Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) đã được rà soát, nghiên cứu để quy định trong Luật. Do đó, trong luật tổ chức chính quyền địa phương không giao Chính phủ ban hành quy chế làm việc mầu của Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó quá trình hoạt động, căn cứ vào tình hình của địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản thuộc nhiệm vụ, quyền hạn cảu Ủy ban nhân dân cấp mình. Tuy nhiên, khi ban hành văn bản quy định về Quy chế làm việc của  Ủy ban nhân dân mỗi cấp cần xem xét sự phù hợp với luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật tiếp công dân và các văn bản có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp.
1.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ HAI QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm kiếm nhân tài trong lĩnh vực khoa học, công nghệ để thu hút người tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào đời sống và sản xuất nâng, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc tìm kiếm, tôn vinh những nhân tài  trong lĩnh vực khoa học và công nghệ và các công trinh KH & CN có giá trị lý luận và thực tiễn, có khả năng ứng dụng mang lại hiệu quả cao về kinh tế - xã hội và góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về KH&CN  là hai giải thưởng cao quý  mà Nhà nước trao tặng 5 năm /lần cho tác giả, đông tác giả của các cụm công trình, Cụm công trình KH&CN tiêu biểu, có giá trị cao về KH&CN, có ảnh hưởng rộng lớn, lâu dài trong đời sống, góp phần phát triển kinh tế -xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến nya, giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về KH&CN đã được tổ chức xét tặng 5 lần vào các năm 1996, 2000, 2005, 2010 và 2016.
Ngoài ra, để tôn vinh các cá nhân có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, từ năm 2014 đến nay, nhân ngày KH&CN Việt Nam 18/5, Bộ Khoa học và Công nghệ định kỳ tổ chức xét tặng và trao giải thưởng Tạ Quang Bửu nhằm tôn vinh các nhà Khoa học có thành tựu nổi bật trong nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Đây là giải thưởng trong nước đầu tiên vinh danh các nhà khoa học có  công trình khoa học xuất sắc mang tầm thế giới. Các nhà khoa học được giải thưởng không chỉ được cộng đồng khoa học trong nước mà cả cộng đồng khoa học thế giới công nhận.
Từ năm 2016, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã tổ chức xét tặng và trao giải thưởng Trần Đại nghĩa nhằm khích lệ và tôn vinh các nhà khoa học có thành tựu xuất sắc vè khoa học tự nhiên và công nghệ; trực tiếp tổ chức triển khai ứng dụng các kết quả đó để đóng góp và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Giải thưởng được trao tặng thường niên vào dịp kỷ niệm ngày thành lập Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và ngày KH&CN Việt Nam (định kỳ 20/5 hằng năm).
Bên cạnh đó, nhiều cuộc thi và các giải thưởng về KH&CN đã được tổ chức như: Giải thưởng Sáng tạo KH&CN Việt Nam – Vifotec (do Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam tổ chức); Giải thưởng WIPO; Giải thưởng KH&CN Thanh nhiên Quả cầu vàng (do Trung ướng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ chức từ năm 2003 đến nay)... Các nhân tố tham gia giải thưởng và các công trình đã đạt giải để thể hiện tính tiên phong trong đổi mới, sáng tạo , thúc đẩy sự phát triển KH&CN, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN vào sản suất để nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiều địa phương trong cả nước đã tích cực tổ chức các cuộc thi “Sáng tạo KH&CN”, trao giải thưởng về KH&CN của địa phương, tìm kiếm các ý tưởng, giải pháp công nghệ giải quyết các vấn đề thực tiễn của địa phương, các cuộc thi sáng tạo Kh&CN trong thanh niên,...
Trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc tổ chức xét tặng và trao các giải thưởng về KH&CN để tôn vinh các nhà Khoa học có sản phẩm KH&CN có giá trị ứng dụng cao, phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
2.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ HAI QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Hạn chế tổ chức các cuộc thi hoa hậu, người đẹp và tăng cường kiểm duyệt các hoạt động văn hóa, văn nghệ trên truyền hình, vì có một số chương trình, tiết mục trang phục, phong cách biểu diễn của các nghệ sỹ không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.
* Về đền nghị hạn chế tổ chức các cuộc thi hoa hậu, người đẹp
Theo quy định tại Nghị định số 15/2016/NQ-CP ngày 15/3/2016 của Chính phủ sửa đồi, bổ sung một số điều của Nghị định số 79/2012/NĐ-CP mỗi năm chỉ tổ chức tối đa 02 cuộc thi hoa hậu toàn quốc, 03 cuộc thi hoa khôi cấp vùng, ngành nghề, đoàn thể và 01 cuộc thi cấp tỉnh, thành.
Thực hiện công tác quản lý Nhà nước và tổng kết hoạt động tổ chức các cuộc thi Hoa hậu, người đẹp, mỗi năm trên toàn quốc chỉ diễn ra từ 01 đến 02 cuộc thi hoa hậu và một số cuộc thi hoa khôi, người đẹp. Các cuộc thi được cấp phép theo quy định đều được tổ chức tại các tỉnh/thành có nhiều danh lam thắng cảnh, có dịch vụ du lịch phát triển như Khánh Hòa, Đà Nẵng, Phú Quốc-Kiên Giang,... và các hoạt động này đều được tổ chức, quản lý theo đúng quy định của pháp luật. Hoạt động tổ chức các cuộc thi này góp phần thực hiện tích cực trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế; góp phần thúc đẩy, phát triển du lịch và quảng bá những nét văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam tới Thế giới.
Trong thời gian tới, Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm để tổ chức các cuộc thi sắc đẹp theo đúng quy định của pháp luật.
*Về tăng cường kiểm duyệt các hoạt động văn hóa nghệ thuật trên truyền hình
Trong những năm gần đây, với cơ chế liên kết, xã hội hóa, các tổ chức phát sóng giao cho doanh nghiệp tư nhân sản xuất nội dung, vì vậy còn xảy ra một số sai phạm gây dư luận trái chiều trong công chúng, khán giá từ các chương trình truyền hình thực tế được mua bản quyền của nước ngoài.
Các tổ chức phát thanh, truyển hình ngoài việc phải tuân thủ các quy định của pháp luật về biểu diễn nghệ thuật, còn phải chịu trách nhiệm và thực hiện theo quy định của Luật Báo chí.
Trong thời gian tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật để các tổ chức phát sóng hiểu và tuân thủ đúng quy định pháp luật khi tham gia biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang và yêu cầu quản lý chặt chẽ nội dung các chương trình nghệ thuật phát sóng trên truyền hình theo đúng quy định của pháp luật và chấn chỉnh nghiêm khắc sai phạm.
Hiện nay, Bộ đã hoàn thiện trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 158/2013/NĐ-CP nagyf 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt  vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo. Trong đó, quy định theo hướng tăng nặng chế tài xử phạt tiền và các hình thức xử phạt bổ sung như đình chỉ hoạt động, tước, thu hối giấy phép hoạt động có thời hạn đối với nghệ sĩ biểu diễn. Nội dung sửa đổi này sẽ góp phần ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa nói chung và nghệ thuật biểu diễn nói riêng.
3.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ HAI QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm tổ chức thông báo mức độ ô nhiễm môi trường, hiện trạng chất lượng môi trường trên lưu vực sông Gâm thuộc địa bàn huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng và huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang bị ảnh hưởng do vỡ bể chứa chất thải của Nhà máy tuyển nổi chì kẽm tại thị trấn Pác Miều, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng ngày 05/01/2016. Đồng thời định kỳ tiến hành quan trắc chất lượng môi trường nước sông Gâm lưu vực từ điểm xả của Nhà máy tuyển nổi chì kẽm đến địa bàn huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang theo đúng quy định để nhân dân yên tâm tiếp tục sử dụng nước sông Gâm phục vụ hoạt động sản xuất, sinh hoạt.
- Về mức độ ô nhiễm, hiện trạng chất lượng môi trường sông Gâm bị ảnh hưởng  do vỡ bể chứa chất thải của Nhà máy tuyển nổi chì kẽm tại Pác Miều, Bảo Lâm, Cao Bằng:
Ngày 13/1/2016, Đoàn công atsc của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khảo sát, đánh giá thực tế tại một số địa điểm liên quan đến sự cố: khu vực hồ chứa chất thải của công ty, khu vực bị sụt lún khu vực cống thải đầu ra chảy vào bể xử lý nước thải, khu vực suối bản Khun và điểm cuối suối bản Khun chảy ra sông Gâm.
Kết quả khảo sát thực tế tại một số cụm đá bên bờ sông Gâm cho thấy hiện tượng bùn xám còn bám lại. Tiếp tực xuôi hạ về thượng nguồn sông Gâm thuộc địa bàn tỉnh Hà Giang, cách điểm xả của suối bản Khun khoảng 2,7km  vẫn phát hiện vệt bùn trên bờ sông Gâm. Như vậy có thể kết luận bùn và nước thải đã di chuyển theo dòng chảy về hạ lưu sông Gâm và sang đến tỉnh Hà Giang. Tại thười điểm khảo sát, quan sát cảm quan cho thấy nước sông Gâm đã trở lại màu và mùi bình thường, không có màu đục, xanh hoặc có mùi lạ như thông tin báo cáo của đại diện tỉnh Hà Giang khi giám sát sự cố.
Đoàn quan sát đã tiến hành lấy mẫu nước mặt tại một số vị trí trên sông Gâm, suối bản Khun (đoạn trước và sau khi cống thải của công ty), một số mẫu chất thải để đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do sự cố. Kết quả quan trắc môi trường sau sự cố cho thấy đã phát hiện nồng độ chì là vượt quá quy chuẩn QCVN 08-MT:2015/BTNMT trong mẫu nước thải lấy tại hồ chứa bùn thải (trước khi xử lý). Như vậy, có tồn tại một lượng chì kim loại hoàn tan trong nước thải sau sản xuất. Đối với cac mẫu nước sông lấy tại vị trí 50m về phía thượng nguồn và hạ lưu sông Gâm, nồng độ chì trong nước không vượt quá quy chuẩn QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Do đó, có thể nhận định rằng, tại thười điểm xảy ra sự cố, có thể một lượng trì đã thoát ra môi trường nước sông Gâm, nhưng sau một thời gian bị pha loãng trong nước sông, nồng độ chì kim loại  đã giảm xuống dưới tiêu chuẩn cho phép và do đó không có khả năng gây tác hại môi trường cấp tính. Tuy nhiên, các hoạt động quan trắc, giám sát môi trường nước cần tiếp tục thực hiện để đánh giá hàm lượng chì có thể tiếp tục thôi nhiễm từ lượng bùn thải đã thoát ra sông gâm. Nồng độ các kim loại nặng khác trong nước sông không phát hiện vượt tiêu chuẩn cho phép.
Kết quả quan trắc nêu trên đã được Bộ báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 682/BTNMT-TCMT ngày 3/3/2016 và thông báo rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng để người dân biết.
- Về kiến nghị tiếp tục quan trắc chất lượng môi trường nước sông Gâm lưu vực từ điểm xả của Nhà máy: Ngay sau khi xảy ra sự cố, Bộ Tài nguyên và môi trường đã có công văn số 682/BTNMT-TCMT ngày 3/3/2016 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về sự cố, trong đó đã kiến nghị các giải pháp cần triển khai để giám sát, khắc phục hậu quả sự cố; trong đó có biện pháp quan trắc chất lượng nước sông. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 3621/VPCP-KTN ngày 18/5/2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh Cao Bằng, hà Giang tiếp tục quan trắc và giám sát môi trường đối với các mẫu nước và trầm tích đáy sông trong thời gian 12 tháng để kiểm soát môi trường nước sông Gâm; kịp thời thông báo trong trường hợp phát hiện các dấu hiệu ô nhiễm nguồn nước.
4.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ HAI QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Quốc hội xem xét ban hành Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia để hạn chế tình trạng lạm dụng bia, rượu làm gia tăng tai, tệ nạn xã hội và an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Thực hiện Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26/11/2011 về chương trình xây dựng Luât, Pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII, Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày 17/2/2712 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án Luật, Pháp lệnh thuộc chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh  nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Bộ Y tế đang xây dựng dự án Luật phòng, chống tác hại của rượu bia và đã đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định hỗ sơ để xây dựng Luật phòng chống tác hại rượu bia để trình Chính phủ, Quốc hội đưa dự án Luật nêu trên vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2018 của Quốc hội khóa XIV.

5.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ HAI QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Tuyến đường cột cờ Quốc gia Lũng Cú, tỉnh Hà Giang (đường quốc lộ theo Quyết định số 1015/QĐ-BGTVT, ngày 04/4/2016 của Bộ Giao thông vận tải), có chiều dài 26 km; hiện nay lưu lượng xe lưu thông ngày càng tăng cao, thường xuyên ùn tắc. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, du lịch gắn với đảm bảo quốc phòng an ninh, Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét đầu tư nâng cấp, sửa chữa, cải tạo tuyến đường này.
Tuyến đường cột cờ Quốc gia Lũng Cú, tỉnh Hà Giang mới được chuyển lên thành quốc lộ năm 2016. Hiện nay, do các nguồn phân bổ cho Bộ GTVT giai đọa 2016-2020 là hết sức hạn chế nên chưa thể bố trí vốn để triển khai tuyến đường này. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục đường bộ Việt Nam cân đối, bố trí vốn sửa chữa mặt đường để đam bảo êm thuận cho người và địa phương qua lại. Khi cân đối được nguồn vốn và hoàn thiện các thủ tục cần thiết theo quy định (bổ sưng vào quy hoạch mạng đường bộ Việt Nam, các thủ tục đầu tư theo quy định của luật đầu tư công vv...), Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư, nâng cấp, cải tạo tuyến đường này.
1.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét hướng dẫn bổ sung việc thực hiện Luật Đầu tư công và Luật Xây dựng năm 2014 theo hướng quy định thời gian cụ thể để thực hiện dự án đầu tư công cho phù hợp với thời gian bố trí vốn và quy trình thực hiện đầu tư dự án.
Điều 13 Nghị định số 77/2015/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2015 về Kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm đã quy định cụ thể thời gian bố trí vốn đối với từng nhóm dự án, trong đó:
- Đối với dự án nhóm B có tổng mức đầu tư dưới 800 tỷ đồng: không quá 5 năm; dự án nhóm B có tổng mức đầu tư từ 800 tỷ đồng đến dưới 2.300 tỷ đồng: không quá 8 năm;
- Đối với dự án nhóm C: không quá 3 năm.
Đây là thời gian tối đa bố trí vốn cho dự án. Các bộ, ngành và địa phương căn cứ tiến độ thực hiện dự án cũng như thời gian tối đa được bố trí vốn cho dự án để xác định mức vốn bố trí cho dự án trong từng năm đảm bảo dự án nhóm B hoàn thành tối đa trong thời hạn 5 năm (tổng mức đầu tư dưới 800 tỷ đồng) hoặc tối đa là 8 năm (tổng mức đầu tư từ 800 tỷ đồng đến dưới 2.300 tỷ đồng), dự án nhóm C hoàn thành tối đa không quá 3 năm.
2.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
3.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
4.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
5.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị xem xét bổ sung chế độ, chính sách được hưởng chế độ hỗ trợ chi phí học tập với đối tượng là học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc diện hộ cận nghèo (hiện nay theo quy định của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ chưa quy định đối tượng này).
Bộ Giáo dục và đào tạo ghi nhận ý kiến cảu cử tri để đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí học tập phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối ngân sách nhà nước trong thời gian tới.
6. CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Cử tri đề nghị xem xét xây dựng Luật Nhà giáo để tích hợp các chính sách đối với Nhà giáo, nhằm thống nhất tổ chức thực hiện trong thực tế.
Trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội hiện chưa có kế hoạch xây dựng Luật nhà giáo. Tuy nhiên, Quốc hội đã giao Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học để trình Quốc hội vào năm 2018.
Trong thời gian vừa qua, Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức ra soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2011-2016. Trên cơ sở kết quả rà soát nêu trên, các vấn đề về chính sách nhà giáo sẽ được Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất trong quá trình triển khai sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học.
1. CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị việc triển khai thực hiệnchính sách tinh giản biên chế (theo quy định của Nghị định 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế và Thông tư liên tịch số 01/2015/TTLT/BNV-BTC ngày 14/4//2015 của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính Hướng dẫn một số điều của Nghị định 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014) đối với các cơ sở giáo dục đào tạo và các đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh cần phải được xem xét. Hiện nay quá trình áp dụng không đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đơn vị, vì không đảm bảo định mức, cơ cấu môn học và định mức người làm việc gắn với giường bệnh, cơ cấu bộ phận, chuyên môn.Đồng thời xem xét khi thẩm định giao chỉ tiêu số lượng người làm việc đối với lĩnh vực giáo dục, y tế, đề nghị xem xét đến các yếu tố đặc thù của các địa phương vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (địa bàn rộng, chia cắt; dân cư không tập trung) để đảm bảo việc huy động trẻ em, học sinh các bậc học đến trường và đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu của nhân dân.
*Về thực hiện tinh giảm biên chế đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo, các cơ sở y tế khám chữa bệnh
Tại Nghị quyết số  39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 39-NQ/TW), Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế, Quyết định số 2218/QĐ-TTG  ngày 10/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 6/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế đã quy định việc tinh giản biên chế được thực hiện như sau:
- Các cơ quan, tổ chức chỉ được sử dụng không quá 50% tổng số người đã thực hiện tinh giản biên chế, nghỉ hưu đúng tuổi và thôi việc theo quy định của pháp luật.
- Hàng năm, giảm tối thiểu 50% tổng số người đã thực hiện tinh giản biên chế, nghỉ hưu đúng độ tuổi và thôi việc theo quy định của pháp luật của Bộ, ngành, địa phương.
Như vậy, việc thực hiện tinh giản 50% biên chế của số công chức, viên chức đã thực hiện tinh giản biên chế, nghỉ hưu đúng tuổi, thôi việc theo quy định của pháp luật là chủ trương của Đảng, quy định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, được áp dụng đối với tất cả các cơ quan, tổ chức hành chính (không áp dụng đối với cán bộ, công chức cấp xã) và các đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn tỉnh.
Riêng đối với lĩnh vực giáo dục – đào tạo do thành lập mới trường, tăng lớp, tăng học sinh và lĩnh vực y tế do thành lập mới tổ chức, tăng quy mô giường bệnh... thì có thể bổ sung biên chế phù hợp, nhưng phải quản lý chặt chẽ. Trường họp không do các nguyên nhân nêu trên thì các đơn vị sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế vẫn phải thực hiện tinh giảm biên chế theo quy định.
Căn cứ các quy định nêu trên, đề nghị tỉnh Hà Giang thực hiện đúng chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật về tinh giản biên chế.
* Về thẩm định giao chỉ tiêu số lượng người làm việc đối với lĩnh vực giáo dực, y tế, đề nghị xem xét đến các yếu tố đặc thù của các địa phương vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Tại Khoản 1 Điều 7 Luật viên chức quy định: Vị trí việc làm là căn cứ xác định số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tại điều 4 Nghị định số 41/2012/NĐ-CP nagyf 8/5/2012 của Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập, quy định các căn cứ xác định vị trí việc làm, trong đó có căn cứ vào tính chất, đặc điểm, nhu cầu công việc; quy mô công việc, phạm vi, đối tượng phục vụ để xác định vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Như vậy, việc thẩm định số lượng người làm việc đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế đã được tính đến các yếu tố đặc thù ở địa phương theo quy định của pháp luật nêu trên.
2. CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét điều chỉnh lương hưu của những người nghỉ hưu từ năm 1995 trở về trước, theo hướng tăng bình quân.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có những người nghỉ hưu trước năm 1995. Trong giai đoạn 2003-2007, Chính phủ đã có 5 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tùy thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 8 làn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức lương tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.
Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau năm 1995), triển khai Nghị quyết số 99/2015/Qh13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2-16 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hàng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động thương binh và xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/Tt-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 1/1/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.
Hiện nay, việc điều chỉnh lương hưu được thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, theo đó “Chính phủ quy định việc điều chỉnh lương hưu trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế phù hợp với ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội”. Trên thực tế, thời gian qua, khi nhà nước điều chỉnh tăng mức lương cở sở thì lương hưu cũng được điều chỉnh với tốc độ tăng tương ứng nhằm đảm bảo tương quan giữa người nghỉ hưu và người tại chức. Về kiến nghị của cử tri xem xét, điều chỉnh mức lương hưu đối với người nghỉ hưu trướng 1/1/1995 để tương quan với mức lương tương tối thiểu vùng là khó thực hiện trong bối cảnh khi mà mức lương tối thiểu vùng đang có khoảng cách xa so với lương co sở (mức lương tối thiểu vùng I hiện tại là 3.750.000 đồng/tháng, vùng II là 2.580.000 đồng/tháng và mức lương cơ sở là 1.300.000 đồng/tháng), trong khi nguồn kinh phí chi tar cho nhóm đối tượng này hoàn toàn từ ngân sách nhà nước.
Thực hiện Khoản 10 Điều 2 Nghị quyết số 27/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2017, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng trình Chính phủ Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng với mức điều chỉnh tăng thêm là 7,44% trên mức lương hưu và trợ cấp của tháng 6/2017  và thười gian thực hiện từ ngày 1/7/2017.
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi bổ sung Mục c, Khoản 4, Điều 13, Nghị định 136/NĐ-CP ngày 31/12/2015 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công, theo hướng cải cách rút ngắn các bước thẩm định và nên quy định giao cho 1 đơn vị chịu trách nhiệm thẩm định, không nên quy định nhiều cấp, nhiều ngành thẩm định như hiện nay. Đồng thời, đề nghị ban hành hướng dẫn bổ sung quy định cụ thể về cấp thẩm định chủ trương đối với các dự án phê duyệt điều chỉnh bổ sung mà dự án đó được phối hợp sử dụng nhiều nguồn vốn từ ngân sách tỉnh đến ngân sách huyện, ngân sách xã.
Thủ tướng Chính phủ đã giáo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi Nghị định số 136/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư công. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp ý kiến sửa đổi bổ sung mà dự án đó được sử dụng nhiều nguồn vốn từ ngân sách tỉnh đến ngân sách huyện, ngân sách xã được quy định cụ thể tại Điều 34 Nghị định số 136/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính Phủ.

3.CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƯƠNG TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA XIV DO ĐOÀN ĐBQH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị xem xét nâng mức giá trị hàng hóa mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác (nếu có) cao hơn để phù hợp với điều kiện thực tiễn. (Hiện nay giá trị hàng hóa mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác là không quá 2.000.000 (hai triệu) đồng/1người/1lượt và không quá 4 lượt/1 tháng).
Trước ngày 1/9/2016, chính sách ưu đãi miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu dưới hình thức mua, bán, trao đổi của cư dân biên giưới được quy định tại Điều 14 quyết định số 52/2015/QĐ-TTg ngày 20/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý hoạt động thương mại biên giới với các nước có chung biên giới (thay thế Quyết định sô 254/2006/QĐ-TTg và Quyết định số 139/2009/QĐ-TTg) như sau: Hàng hóa nhập khẩu dưới hình thức mua, bán, trao đổi của cư dân biên giới được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác (nếu có) với giá trị không qua 2.000.000 đồng/người/ngày/lượt và không quá 4 lượt/tháng đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa mua bán, trao đổi củ dân cư biên giới.
Qua đánh giá thực tế, chính sách miễn thuế đối với hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới đạt được nhiều mặt tích cực như góp phần thức đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và các nước có chung biên giới (Trung Quốc, Lào, Campuchia), góp phần củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị, ổn định đời sống đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa để đông bào định cư lâu dài ở khu vực biên giới, qua đó góp phần bảo vệ an ninh, quốc phòng. Thực tế nhiều nới cu dân biên giới không sử dụng hết định mức miễn thuế này do nhu cầu phát sinh không thường xuyên, một số trường hợp lợi dụng thu gom hàng hóa miễn thuế tiêu thụ trong nội địa, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước.
Kể từ ngày 1/9/2016 trở đi, chính sách ưu đãi miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu dưới hình thức mua bán, trao đổi của dân cư biên giới được quy định tại Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sô 107/2016/QH13 và Nghị định soos134/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như sau: “Cư dân biên giưới là công dân việt Nam có hộ khẩu thường trú tại các khu vực biên giới, người có giấy phép của cơ quan công an tỉnh biên giới cho cư trú ở khu vực biên giới được miễn thuế với giá trị hải quan không quá 2.000.000 đồng/người/ngày/lượt và không quá 4 lượt/tháng”. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 và Nghị định sô 134/2016/NĐ-CP vừ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/9/2016. Vì vậy, bộ Tài chính đề nghị thực hiện theo quy định pháp luật thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu hiện hành
Cử tri Hà Giang kiến nghị:
Đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn cân đối ngân sách địa phương ban hành kèm theo Quyết định số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ (nhất là về xác định số điểm của từng tiêu chí cụ thể, như: số dân trung bình, thu nội địa, tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung ương, Tỷ lệ diện tích đất trồng lúa trên tổng diện tích đất tự nhiên...) để giao nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020 cho phù hợp với các tỉnh đặc biệt khó khăn. Vì theo quy định hiện tại, các tỉnh khó khăn, đặc biệt khó khăn chỉ đảm bảo thực hiện an sinh xã hội, không đủ nguồn lực cho đầu tư phát triển, ngay cả đối với các công trình, dự án cấp bách ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Đồng thời đề nghị có cơ chế hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho địa phương là hỗ trợ 100% cho các dự án từ nhóm C trở lên.
Nhằm bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất về mục tiêu, cơ chế, chính sách khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải trong việc phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN phục vụ phát triển KT-XH, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, ưu tiên bố trí vốn cho cac vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, góp phần thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, thu nhập và mức sông của dân cư giữa các vùng, miền trong cả nước; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14 tháng 9 năm 2015 về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN giai đoạn 2016-2020.
Nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn quy định tại quyết định số 40/2015/QĐ-TTg không chỉ được xây dựng trên tiêu chí về dân số mà còn dựa trên 04 nhóm tiêu chí khác gồm: (i) Tiêu chí về trình độ phát triển, (ii) Tiêu chí diện tích, (iii) Tiêu chí về đơn vị hành chính cấp huyện và (iv) Các tiêu chí bổ sung. Trong từng nhóm tiêu chí đã được xem xét điều chỉnh về phương pháp tính toán và điểm số, làm căn cứ tính toán định mức phân bổ vốn cân đối ngân sách địa phương cho sát với thực tế, trong đó đã nâng số điểm để hỗ trợ thêm cho các địa phương nghèo và khuyến khích các địa phương có nguồn thu lớn tăng thu ngân sách.
Bên cạnh nguồn vốn cân đối NSĐP, địa phương còn được NSTW bổ sung vốn, kinh phí:
- Thực hiện 02 chương trình mục tiêu quốc gia và 21 chương trình mục tiêu; mức bổ sung phụ thuộc vào số lượng chương trình thực hiện trên địa bàn.
- Thực hiện các chương trình, dự án từ vốn vay ODA.
Ngoài ra, có một số dự án trọng điểm của quốc gia, một số dự án thuộc nhiệm vụ chi ngân sách trung ương giao cho địa phương quản lý, một số dự án của trung ương thực hiện trên địa bàn của địa phương.
Để đảm bảo bố trí vốn tập trung, tránh dàn trải, hiệu quả, đối với các dự án giai đoạn mới 2016-2020, Nghị quyết sô 1023/2015-UBTVQH13 ngày 28 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban thường vuh Quốc hội về ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển  nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 đã quy định “vốn ngân sách trung ương chỉ hỗ trợ cho dự án từ nhóm B trở lên; trừ trường hợp đặc biệt đối với các dự án cấp bách về phòng chống thiên tai, dịch bệnh, an ninh quốc phòng và giải quyết những vấn đề bức xúc nhất của địa phương do Thủ tướng Chính phủ quyết định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn danh mục dự án nhóm B để đề nghị hỗ trợ từ nguồn vốn NSTW phù hợp với số vốn được phân bổ theo từng chương trình cho địa phương”.
1 2 
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
Địa chỉ: Số 01, Đường 26/3 - Phường Nguyễn Trãi - Thành phố Hà Giang - Tỉnh Hà Giang
Điện thoại: 02193.860.778 - Fax: 02193.860.778
Email: bbt.dbnd@hagiang.gov.vn hoặc tttthdndhg@gmail.com