Câu hỏi |
Trả lời |
1. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường liên kết các xã Kim Thạch - Kim Linh - Linh Hồ - Ngọc Linh (cử tri xã Linh Hồ, Kim Linh, Kim Thạch, Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên).
2.Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường từ thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang đi xã Xuân Giang, huyện Quang Bình tại địa phận đi qua khu vực trung tâm xã Yên Hà, tuyến đường (đã được đầu tư thi công 1km đường bê tông từ năm 2017) (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
3. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng Hồ treo tại thôn Há Hơ, xã Sà Phìn (Cử tri xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn).
4. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng cầu cứng thôn Lũng Cáng, xã Thuận Hòa. Vì hiện nay, trên địa bàn thôn Lũng Cáng, xã Thuận Hòa có 01 cây cầu sắt phục vụ cho người dân của 02 thôn (nối với km 16 QL 4C) nhưng đã bị hư hỏng nặng (cử tri xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên).
5. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng tuyến kênh mương từ đội 2 đến đội 5 thôn Tràng Chải, xã Pờ Ly Ngài, có chiều dài 2,6 km (cử tri xã Pờ Ly Ngài, huyện Hoàng Su Phì); Tuyến đường bê tông từ xã Nàng Đôn đi xã Hồ Thầu dài 15km, hiện nay là nền đất (cử tri xã Nàng Đôn, huyện Hoàng Su Phì).
6. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng hoàn thiện hệ thống kè chống sạt lở bờ sông Lô đoạn từ Trường Cao đẳng Sư Phạm đến suối Cầu Mè; kè bờ Tây Sông Lô đoạn qua Tổ 1 phường Quang Trung (Cử tri phường Nguyễn Trãi, Quang Trung, thành phố Hà Giang).
7. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống rãnh thoát nước trên tuyến đường lên Trận địa Đài quan sát phòng không để khắc phục tình trạng mỗi khi mưa lớn, nước và đất, đá tràn vào khu vực dân cư bên dưới đường (Cử tri phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang).
8. Đề nghị tỉnh quan tâm chất lượng xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung (hồ treo) trên địa bàn các huyện và bố trí kinh phí duy tu, sửa chữa các công trình hư hỏng để phát huy hiệu quả đầu tư các công trình (Cử tri phường Minh Khai, thành phố Hà Giang).
9. Đề nghị UBND tỉnh xem xét sửa chữa Hồ treo Sủa Cán Tỷ và Hồ treo Pờ Chúa Lủng, xã Cán Tỷ. Hiện nay, 02 hồ này đã được đưa vào sử dụng 10 năm, nên có một số hạng mục bị hư hỏng làm ảnh hưởng đến khả năng trữ nước và chất lượng nguồn nước, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân (cử tri xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
10. Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo các sở, ngành và các chủ đầu tư: Đối với các công trình xây dựng cầu, làm đường mà liên quan đến các dự án khai thác, vận chuyển khoáng sản thì không sử dụng ngân sách Nhà nước để đầu tư, không bố trí vào kế hoạch đầu tư công mà phải yêu cầu các đơn vị khai thác khoáng sản tại địa bàn có trách nhiệm đầu tư cầu, đường bê tông hoặc trải nhựa đảm bảo cho Nhân dân nơi chịu ảnh hưởng do có hoạt động khai thác đi lại thuận lợi. Vì theo quy định nếu Nhà nước đầu tư làm đường bê tông liên thôn, liên xã kết cấu đường bê tông rộng 3,4m, dày 16-18 cm không đáp ứng được trọng tải của các xe chở quặng nên đường sẽ bị hư hỏng và xuống cấp rất nhanh gây khó khăn cho việc đi lại của Nhân dân và lãng phí ngân sách Nhà nước (cử tri xã Giáp Trung, huyện Bắc Mê).
11. Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo chủ đầu tư (Công ty TNHH Tiến Đạt) thi công Thủy điện Sông Chảy 3 chi trả hết các khoản kinh phí về bồi thường giải phóng mặt bằng cho nhân dân bị ảnh hưởng từ 2019 đến nay. Đồng thời, quan tâm, xem xét sửa chữa lại cầu treo Na Pê, xã Sán Sả Hồ để đảm bảo an toàn (thay ván cầu bằng sắt), vì cầu treo năm 2021 Công ty TNHH Tiến Đạt xây dựng (để thay thế cầu treo Na Pê đã bị ngập khi xây dựng thủy điện) chưa bàn giao cho xã, chất lượng cầu treo không đảm bảo gây nguy hiểm cho người dân khi đi lại (độ rung lắc cao, ván cầu làm bằng gỗ tạp, mỏng đã cong vênh...) (cử tri xã Sán Sả Hồ, huyện Hoàng Su Phì).
12. Đề nghị tiếp tục hỗ trợ xi măng cho Nhân dân làm đường vào các nhóm hộ, đường liên thôn, đường nội đồng (cử tri xã Sính Lủng, xã Tà Phìn, huyện Đồng Văn).
13. Đề nghị chỉ đạo chủ đầu tư xây dựng tuyến đường Phùng Hưng trên địa bàn phường Ngọc Hà và Trần Phú, thành phố Hà Giang đẩy nhanh tiến độ thi công đảm bảo tiến độ dự án (cử tri phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang).
14. Đề nghị tỉnh chỉ đạo các doanh nghiệp khai thác khoáng sản đầu tư làm tuyến đường giao thông từ trung tâm xã Minh Sơn đi qua 4 thôn: Bình Ba, Nà Sáng, Khuổi Kẹn, Lũng Vầy (khoảng 15 km) để nhân dân đi lại được thuận tiện. Vì hiện nay, tuyến đường này có các doanh nghiệp khai thác quặng lưu thông nên xả bụi, ảnh hưởng đến giao thông, sức khỏe của nhân dân (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
15. Đề nghị quan tâm hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ sở làm việc của Công an xã Tân Tiến để đáp ứng yêu cầu công tác của lực lượng Công an xã hiện nay (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
16. Đề nghị tỉnh tiếp tục thi công tuyến đường Quốc lộ 4 thông ra xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
17. Đề nghị tỉnh xem xét hỗ trợ làm đường bê tông từ đường quốc lộ 4 đi thôn Tân Tiến I , thôn Pắc Ngàm đến cầu Thác Mật của xã Đản Ván, có tổng chiều dài trên 4 km, rộng 3,5m phục vụ nhu cầu đi lại của 63 hộ dân đang sinh sống. Xem xét đầu tư xây dựng tuyến đường từ Km3 lên hội trường thôn Nậm Than với chiều dài 3km (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
18. Đề nghị rà soát, xác định các điểm nguy cơ cao để lắp đặt hộ lan đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông, vì hiện nay tuyến đường từ huyện Quản Bạ và xã Cao Mã Pờ có một số điểm mất an toàn cho người tham gia giao thông, nhất là những thời điểm có sương mù làm khuất tầm nhìn (điển hình đoạn đường giáp gianh giữa xã Tùng Vài và Cao Mã Pờ) và đã xảy ra những vụ tai nạn làm chết người (cử tri xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ).
19. Đề nghị xem xét đầu tư xây dựng hệ thống rãnh dọc thoát nước hai bên tuyến đường từ xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên đi xã Đồng Tâm, huyện Bắc Quang. Vì hiện nay, mới chỉ được đầu tư tuyến đường từ xã Đồng Tâm, huyện Bắc Quang đến xã Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên bằng nguồn vốn ADB (cử tri xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên). |
1.Tuyến đường từ xã Kim Thạch - Kim Linh - Linh Hồ - Ngọc Linh nằm trên tuyếnđường huyện ĐH.05 (Hà Giang - Kim Thạch - Kim Linh - Linh Hồ) và ĐH.08 (Km21 -Ngọc Linh - Linh Hồ - Phú Linh) với tổng chiều dài là 21,3km được đầu tư xây dựnggiai đoạn năm 2006 - 2010. Hiện nay, một số khu vực mặt đường đã xuống cấp, ảnh hưởng đến việc đi lại của nhân dân. UBND tỉnh đã chỉ đạo BQL dự án ĐTXD công trình giao thông làm việc cụ thể với các cơ quan thuộc Bộ Giao thông vận tải, để đề xuất đầutư tuyến đường trong Dự án quản lý tài sản đường địa phương, sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới tại văn bản 2290/UBND-KTTH, ngày 02/8/2022. Trong thời gian tới, sau khi huy động nguồn lực thực hiện UBND tỉnh sẽ chỉ đạo các đơn vị khẩn trương triển khai sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường trên đảm bảo phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
2. Dự án khôi phục, cải tạo tuyến đường Việt Quang – Xuân Giang huyện Quang Bình được thi công từ tháng 2/2020 đến tháng 5/2021, đã hoàn thành nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Đối với đoạn tuyến qua trung tâm xã Yên Hà (đường BTXM dài 01 km được xây dựng từ năm 2017) đã bị hư hỏng, xuống cấp, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quang Bình khảo sát, xây dựng kế hoạch nâng cấp, sửa chữa và thực hiện lồng ghép các nguồn vốn (như: nguồn vốn sự nghiệp giao thông hàng năm, nguồn vốn xây dựngnông thôn mới, nguồn vốn hợp pháp khác) để sớm đầu tư, sửa chữa tuyến đường, phục vụ nhu cầu của nhân dân.
3. Xác định nhu cầu đầu tư xây dựng Hồ treo chứa nước tại các xã của 4 huyện vùng cao núi đá để cung cấp nước sinh hoạt, ổn định cuộc sống cho nhân dân là hết sức cần thiết. UBND tỉnh đã có Quyết định số 1952/QĐ-UBND ngày 27/9/2012 phê duyệt Đề án đầu tư hệ thống hồ chứa nước sinh hoạt tại 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc, tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2012-2020. Tuy nhiên, nhu cầu để đầu tư là rất lớn trong khi nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 hạn chế nên chưa cân đối được nguồn lực để triển khai thực hiện Đề án. UBND Tỉnh sẽ báo cáo các Bộ, ngành Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ tiếp tục đầu tư các Hồ treo chứa nước tại các xã của 4 huyện vùng cao núi đá,bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
4. Hiện nay cây cầu sắt trên địa bàn thôn Lũng Cáng, xã Thuận Hòa phục vụ cho người dân của 02 thôn nối với QL.4C, tại Km16, nhưng đã bị hư hỏng, xuống cấp do thời gian sử dụng và bị ảnh hưởng bởi thiên tai, nhu cầu đầu tư xây dựng cầu tại vị trí trên của cử tri là chính đáng. Tuy nhiên, nhu cầu để đầu tư là rất lớn trong khi nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 hạn chế nên chưa thể cân đối để triển khai thực hiện. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tham mưu, bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại.
5. Đối với đề nghị đầu tư xây dựng tuyến kênh mương từ đội 2 đến đội 5 thôn Tràng Chải xã Pờ Ly Ngài, có chiều dài 2,6km: UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì khảo sát thực tế và nhận thấy nhu cầu đầu tư là rất chính đáng. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn giai đoạn 2021-2025 của tỉnh đang tập trung đầu tư cho các công trình có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội liên vùng, nguồn vốn đầu tư của huyện đã phân bổ hết cho các công trình cấp thiết và lồng ghép để thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia,trong đó trọng tâm là Chương trình Xây dựng NTM nên chưa thể bố trí xây dựng trong giai đoạn 2021-2025. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì xem xét, bố trí vốn để đầu tư để đầu tư sau năm 2025.
Đối với đề nghị đầu tư xây dựng tuyến đường bê tông từ xã Nàng Đôn đi xã Hồ Thầu dài 15km, hiện nay là nền đất: Qua kiểm tra khảo sát, tuyến đường nêu trên đi từ thôn Hoàng Lao Chải xã Nàng Đôn qua địa phận xã Thu Tà huyện Xín Mần và đến đỉnh Chiêu Lầu Thi, có tổng chiều dài là 15km (03 km nằm trên địa phận huyện Hoàng Su Phì và 12km nằm trên địa phận huyện Xín Mần). UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì và huyện Xín Mần tiếp thu ý kiến của cử tri, khảo sát thực tế và đề xuất đầu tư theo quy định.
6. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư của tỉnh rất khó khăn và phụ thuộc nhiều vào ngân sách Trung ương, trong khi nhu cầu đầu tư xây dựng của các địa phương rất lớn. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND Thành phố Hà Giang kiểm tra, có giải pháp để đảm bảo an toàn kè chống sạt lở bờ sông Lô đoạn từ Trường Cao đẳng Sư Phạm đến suối Cầu Mè; kè bờ Tây Sông Lô đoạn qua Tổ 1 phường Quang Trung. Đồng thời, UBND tỉnh tiếp tục đề nghị Trung ương hỗ trợ kinh phí từ nguồn NSTW để đầu tư xây dựng các công trình nêu trên, đảm bảo phát huy hiệu quả dự án và mỹ quan đô thị trên địa bàn thành phố.
7. UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 247/QĐ-UBND ngày 24/08/2022 về việc phê duyệt điều chỉnh Dự án xây dựng tuyến đường giao thông lên trận địa và đài quan sát phòng không tại núi Mỏ Neo, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang; đồng thời chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức triển khai thực hiện để khắc phục tình trạng nước và đất, đá tràn vào khu vực dân cư mỗi khi mưa lớn.
8. Công tác quản lý chất lượng công trình được quy định cụ thể tại Nghị định số 06/2021/NĐ-CP ngày 26/01/2021 của Chính Phủ. UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ban ngành, các chủ đầu tư tăng cường công tác quản lý chất lượng, thi công xây dựng, đảm bảo thực hiện đầy đủ trình tự các bước theo quy định, chú trọng việc quản lý, khai thác và bảo vệ các công trình sau đầu tư.
UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 50/KH-UBND ngày 18/02/2020 Kế hoạch sửa chữa các công trình Hồ chứa nước sinh hoạt 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc giai đoạn năm 2020-2021 và các năm tiếp theo. Đến nay, Tỉnh đã bố trí kinh phí đầu tư thực hiện sửa chữa 10/33 công trình theo kế hoạch (có 02 công trình hoàn thành, 08 công trình đang thi công). Tuy nhiên, với nhu cầu đầu tư lớn, trong khi nguồn kinh phí còn hạn chế nên tỉnh mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của địa phương. UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các huyện, thành phố hàng năm bố trí kinh phí để thực hiện sửa chữa, duy tu các công trình hư hỏng thuộc diện cấp bách, đảm bảo nguồn nước phục vụ cho người dân.
9. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ khảo sát, lập dự toán và xây dựng phương án khắc phục, sửa chữaHồ treo Sủa Cán Tỷ và Hồ treo Pờ Chúa Lủng, xã Cán Tỷ. Dự kiến triển khai thực hiện dự án đầu năm 2023 để đảm bảo nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân.
10. Căn cứ quy định tại Điều 5 Luật Khoáng sản; Điều 15,16 Nghị định 158/2016/NĐ-CPngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản; Điều 8 Nghị định số 164/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ quy định về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản và Nghị quyết số 28/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh. Trên cơ sở kết quả kiểm tra thực tế, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Bắc Mê chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các doanh nghiệp (có hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn xã Minh Sơn) lập phương án đề xuất thực hiện nâng cấp, cải tạo các tuyến đường với hình thức nhà nước và doanhnghiệp cùng làm để làm cơ sở triển khai thực hiện đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân.
11. Về nội dung chỉ đạo chủ đầu tư chi trả hết các khoản kinh phí về bồi thường giải phóng mặt bằng cho nhân dân bị ảnh hưởng từ 2019 đến nay: Đến nay, Công ty TNHH Tiến Đạt đã phối hợp với các đơn vị có liên quan giải quyết xong vướng mắc về bồi thường GPMB với người dân và đã thực hiện chi trả hết số kinh phí về bồi thường GPMB cho cho người dân.
Về nội dung sửa chữa lại cầu treo Na Pê, xã Sán Sả Hồ: UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành của tỉnh và UBND huyện Hoàng Su Phì làm việc, yêu cầu Công ty TNHH Tiến Đạt có trách nhiệm sửa chữa lại các công trình hạ tầng, trong đó có Cầu treo Na Pê (xã Sán Sả Hồ), thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022. UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các ngành và UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra, đôn đốc Công ty TNHH Tiến Đạt triển khai thực hiện.
12. Ngày 17/02/2022, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 221/QĐ-UBND về phê duyệt dự toán kinh phí mua xi măng hỗ trợ thực hiện bê tông hóa đường giao thông nông thôn tại các xã thuộc các huyện, thành phố năm 2022; trong đó số lượng xi măng hỗ trợ cho huyện Đồng Văn là 1.569 tấn (UBND huyện Đồng Văn đã tập trung thực hiện làm đường bê tông tại 02 xã Ma Lé và Lũng Phìn để hoàn thành tiêu chí số 02 (giao thông) và 08 thôn đạt chuẩn nông thôn mới). Đồng thời, ngày 25/7/2022 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1187/QĐ-UBND phân bổ, giao chi tiết nguồn vốn đầu tư phát triển thực hiện 03 Chương trình MTQG năm 2022 trên địa bàn huyện Đồng Văn với số tiền: 174.495 triệu đồng, để huyện Đồng Văn thực hiện các công trình, dự án (bao gồm, đường giao thông nông thôn) trên địa bàn các thôn, xã, huyện Đồng Văn. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Đồng Văn phối hợp với Văn phòng điều phối NTM tỉnh tổ chức khảo sát, hoàn thiện các thủ tục để tiếp tục thực hiện làm đường bê tông nông thôn tại các xã trên địa bàn trong đó có 02 xã (xã Sính Lủng, xã Tả Phìn).
13. Công trình xây dựng tuyến đường Phùng Hưng là một hạng mục thuộc Dự án “Chương trình phát triển các đô thị loại II (các đô thị xanh) – Tiểu dự án tại Hà Giang”, được khởi công xây dựng từ ngày 24/6/2021. Đến nay tiến độ thi công đạt khoảng 45%. Tiến độ thi công còn chậm do gặp vướng mắc về gói thầu Giám sát thi công và hỗ trợ thực hiện dự án (HG-CS01); trên tuyến đường còn 07 hộ gia đình chưa nhận tiền bồi thường giải phóng mặt bằng; cuối tuyến còn 07 cột điện chưa được di dời. UBND tỉnh đã chỉ đạo Chủ đầu tư phối hợp với các đơn vị có liên quan tháo gỡ các vướng mắc về gói thầu Giám sát thi công và hỗ trợ thực hiện dự án (HG-CS01); hoàn tất công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và di dời công trình hạ tầng kỹ thuật điện để tiếp tục thi công công trình.
14. Ngày 18/10/2022, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra hiện trạng tuyến đường giao thông từ trung tâm xã Minh Sơn đi qua 4 thôn: Bình Ba, Nà Sáng, Khuổi Kẹn, Lũng Vầy; tổ chức làm việc với Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông, Công ty cổ phần thép An Khang, Công ty cổ phần khoáng sản Minh Sơn. Kết quả kiểm tra thực tế, trao đổi, thảo luận và ý kiến của các bên cho thấy: Hiện trạng tuyến đường là đường đất, giải đá cấp phối đã xuống cấp, đi lại khó khăn. Do vậy, ý kiến của cử tri xã Minh Sơn đối với việc nâng cấp, cải tạo tuyến đường là hoàn toàn chính đángTrong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo giao UBND huyện Bắc Mê chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các doanh nghiệp(có hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn xã Minh Sơn) lập phương án đề xuất thực hiệncải tạo sửa chữa tuyến đường với hình thức nhà nước và doanh nghiệp cùng làm để làm cơ sở triển khai thực hiện.
15. Tại Nghị quyết số 36/NQ-HĐND ngày 12/10/2021 của HĐND tỉnh phêduyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 có giao kế hoạch vốn hỗ trợ đầu tư trụ sở công an xã, phường, thị trấn trên địa bàn các huyện, thành phố với số tiền 75 tỷ đồng, trong đó: năm 2022 đã bố trí kế hoạch vốn hỗ trợ đầu tư các trụ sở công an xã, phường, thị trấn 25 tỷ đồng; số vốn còn lại là 50 tỷ đồng. Trên cơ sở số vốn còn lại để hỗ trợ đầu tư trụ sở công an xã, phường, thị trấnthuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan chủ trì tham mưu phân bổ kế hoạch vốn đầu tư) thống nhất với Côngan tỉnh rà soát các trụ sở Công an xã cần thiết đầu tư, báo cáo UBND tỉnh để đưavào kế hoạch đầu tư năm 2023 (trong đó có trụ sở công an xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
16. Quốc lộ 4 nối Hà Giang - Lào Cai (giai đoạn I) được phê duyệt đầu tư nâng cấp các đoạn Km238 - Km258, Km271 - Km299, Km339 - Km414 và triển khai thi công từ năm 2008, tuy nhiên đến tháng 02/2011 Chính phủ thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội vì vậy Dự án mới hoàn thành được 06 đoạn với tổng chiều dài 72 km. Đối với 21 km (Km368 - Km 388) qua đèo Tây Côn Lĩnh chưa được đầu tư, khái toán dự án đoạn tuyến khoảng 600 tỷ đồng. Ban Quản lý dự án 6 (Ban QLDA 6) đã tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét danh mục bố trí vốn đầu tư các dự án. Thời gian qua lãnh đạo Đảng, nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ đã rất quan tâm, nhưng vì điều kiền nguồn vốn chưa cho phép, nên đoạn tuyến này chưa bố trí được vốn để triển khai đầu tư.
UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở Giao thông Vận tải phối hợp với BQLDA 6 đề xuất và kiến nghị Bộ Giao thông vận tải rà soát các nguồn để ưu tiên đầu tư hoàn thành tuyến đường trên phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng cho tỉnh.
17. Đối với nội dung đề nghị làm đường bê tông từ đường quốc lộ 4 đi thôn TânTiến I, thôn Pắc Ngàm đến cầu Thác Mật của xã Đản Ván:UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì UBND huyện Hoàng Su Phìrà soát và bố trí vốn đưa vào kế hoạch đầu tư trong năm 2022 (tại Quyết định số 5118/QĐ-UBND ngày 23/9/2022 về việc phân bổ, giao chi tiết kế hoạch vốn đầu tư phát triển thực hiện các Chương trình MTQG trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì năm 2022). Hiện nay, UBND huyện Hoàng Su Phì đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan tổ chức khảo sát, lập hồ sơ xây dựng theo quy định.
Đối với nội dung đề nghị đầu tư xây dựng tuyến đường từ Km3 lên hội trường thôn Nậm Than: UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì rà soát, cân đối nguồn lực để tập trung đầu tư tuyến đường phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
18. Tuyến đường từ Tùng Vài - Cao Mã Pờ (ĐH.03) có tổng chiều dài tuyến 9km, mặt đường láng nhựa. Tuyến đường chủ yếu là đèo dốc, có vực sâu nguy hiểm. Tổng chiều dài các đoạn trên tuyến đường cần xây dựng hộ lan để đảm bảo an toàn cho các phương tiện và người tham gia giao thông là 1,510 km, việc xây dựng hộ lan là cần thiết, kiến nghị của cử tri là chính đáng và thiết thực. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ có phương án xây dựng tường hộ lan bằng đá hộc gắn vữa xi măng ở đoạnvực sâu nguy hiểm nhất (chiều dài 0,3km), thời gian thực hiện trong tháng 11/2022; Đồng thời chỉ đạo các đơn vị chuyên môn nghiên cứu, tham mưu bố trí kinh phí để xây dựng hộ lan mềm (hộ lan tôn sóng) với chiều dài 1,21 km đảm bảo an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông.
19. Hiện nay, Sở Kế hoạch và Đầu tư (Chủ đầu tư công trình) đã hoàn thành 12,56 km kênh theo hồ sơ thiết kế dự án đã được phê duyệt; Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Chủ đầu tư rà soát các đoạn tuyến cần thiết bổ sung rãnh dọc thoát nước đảm bảo vận hành công trình bền vững và đảm bảo thoát nước, chống ngập úng phục vụ nhân dân sinh sống dọc hai bên tuyến đường. Dự kiến sẽ triển khai thi công các hạng mục rãnh bổ sung trong quý 1/2023, đảm bảo thoát nước trước mùa mưa. |
1. Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo các sở, ngành có liên quan đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân (cử tri huyện Vị Xuyên).
2. Đề nghị tỉnh quy định giảm diện tích đất nông nghiệp được phép tách thửa chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở để các hộ gia đình có điều kiện diện tích phù hợp được tách thửa, chuyển mục đích sử dụng đất khi tách hộ gia đình (cử tri phường Ngọc Hà, phường Trần Phú, thành phố Hà Giang).
3. Đề nghị tỉnh xem xét rút ngắn thời gian đăng ký chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ 1 lần/năm xuống 2 lần/năm để kịp thời chuyển mục đất cho các hộ dân xây dựng nhà ở, phát triển đô thị (cử tri phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang).
4. Đề nghị chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc Sở Tài nguyên và Môi trường sớm hoàn thành dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Kế hoạch số 30/KH-STNMT ngày 31/5/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường về việc triển khai thực hiện đăng ký lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bổ sung) trên địa bàn huyện Bắc Mê. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí để thực hiện cập nhật xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đối với những Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo Kế hoạch số 30/KH-STNMT và chỉ đạo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chủ trì phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND thị trấn, xã của huyện Bắc Mê thực hiện cấp phát Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân (cử tri huyện Bắc Mê).
5. Đề nghị chỉ đạo ngành chuyên môn thực hiện kiểm tra, đánh giá hiện trạng môi trường của xã Minh Sơn để có giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Vì hiện nay, một số bể xả thải của Công ty An Thông rò rỉ, tràn ra môi trường; khu vực tập kết quặng của Công ty An Khang lắp đặt hệ thống máy móc sơ chế tại đầu nguồn nước của thôn Nà Sáng, xã Minh Sơn gây ô nhiễm môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của nhân dân (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
6. Đề nghị tỉnh xem xét chỉ đạo rà soát để đưa diện tích đất của các hộ gia đình, hiện đang sử dụng ổn định, lâu dài ra khỏi diện tích đất quy hoạch ba loại rừng. Vì hiện nay trên địa bàn xã Minh Sơn còn 150 hộ gia đình đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích trùng với diện tích đất quy hoạch ba loại rừng (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
7. Đề nghị tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn kiểm tra lại các vị trí đã cắm mốc giới rừng đặc dụng. Vì hiện nay, một số vị trí đặt mốc giới rừng trùng vào diện tích đất sản xuất của người dân (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
8. Đề nghị xem xét điều chỉnh giảm diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất nông nghiệp tại Khoản 4, Điều 4, Quyết định 142/2021/QĐ-UBND ngày 08/11/2021 của UBND tỉnh (thửa đất phải đảm bảo diện tích tối thiểu: đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây lâu năm, đất nông nghiệp khác đối với khu vực đô thị là 300m2; đối với khu vực nông thôn là 500m2 ). Theo quy định như hiện nay diện tích tối thiểu được tách thửa lớn, khó thực hiện (cử tri xã Phố Là, huyện Đồng Văn).
9. Đề nghị bố trí quỹ đất trong thành phố Hà Giang, khu vực thuận lợi, không quá xa khu trung tâm thành phố và đầu tư xây dựng khu vui chơi cho trẻ em (cử tri phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang). |
1. Ngày 24/8/2020, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 1463/QĐ-UBND về việc điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của Quyết định 504/QĐ-UBND ngày 03/4/2012 của UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Kế hoạch số 1227/KH-STNMT ngày 19/5/2022 triển khai thực hiện Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính
và cơ sở dữ liệu quản lý địa chính tỉnh Hà Giang năm 2022. Theo Kế hoạch, để đảm bảo thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trài, dự án được thực hiện theo hình thức cuốn chiếu liên tục từ khâu đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sửdụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất đến xây dựng cơsở dữ liệu địa chính. Kế hoạch năm 2022 hoàn thành việc cấp mới bổ sung, cấpđổi chứng nhận quyền sử dụng đất 15 xã (bao gồm huyện Vị Xuyên; Hoàng SuPhì). Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các đơn vị liên quan khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ theo lộ trình đã đề ra.
2. Thực hiện quy định tại Khoản 23 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 42/2021/QĐ-UBND ngày 08/11/2022 quy định cụ thể điều kiện tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất. Việc ban hành quyết định nêu trên tạo sự đồng bộ trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai; đồng thời, cũng hạn chế việc tách nhỏ thửa đất nông nghiệp, ngăn chặn tình trạng “chia nhỏ” thửa đất nông nghiệp và xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp.Về ý kiến của cử tri, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp thu ý kiến để nghiên cứu đưa vào đề xuất tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2013, nhằm tạo kiện thuận lợi cho người dân.
3. Theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 9 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai được sửa đổi bởi Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ. Hàng năm UBND các huyện, thành phố lập kế hoạch sử dụng đất các nội dung theo Điều 43, 44, 45, 46 Thông tư số 01/2021/TT-BTNMT ngày 12/4/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định kỹ thuật việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đây là cơ sở cho việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất trong năm kế hoạch.
Tuy nhiên để tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện cho các tổ chức, hộ gia đình trong quá trình thực hiện; tại điểm c khoản 3 Điều 7 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 được sửa đổi bởi Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ, nếu các hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất thì làm đơn đăng ký gửi về UBND cấp xã để tổng hợp gửi Phòng Tài nguyên và Môi trường để trình UBND cấp huyện báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường và trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết địnhcập nhật vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện để làm cơ sở tổ chức thực hiện. Quy định:" Quý III hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp huyện gửi hồ sơ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của năm sau đến Sở Tài nguyên và Môi trường để tổ chức thẩm định….Căn cứ hồ sơ kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được hoàn thiện và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường trình UBND tỉnh phê duyệt thực hiện xong trước ngày 31 tháng 12".
4. Huyện Bắc Mê đã tổ chức đo đạc bản đồ địa chính và cấp giấy CNQSD đất cho các hộ gia đình, cá nhân xong từ năm 2016. Trong quá trình thực hiện đăng ký cấp giấy chứng nhận còn một số hộ chưa tham gia thực hiện do vắng mặt và một số nguyên nhân khách quan khác; UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường ban hành Kế hoạch số 30/KH-STNMT ngày 31/5/2017 về việc triển khai thực hiện đăng ký lập hồ sơ cấp giấy CNQSD đất (bổ sung) trên địa bàn huyện Bắc Mê, Quang Bình, Quản Bạ. Kết quả thực hiện trên địa bàn huyện Bắc Mê như sau: Đã hoàn thành cấp bổ sung 2.196 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Minh Ngọc 636 Giấy, Lạc Nông 496 Giấy, Giáp Trung 267 Giấy, Thị trấn Yên Phú 797 Giấy); đang thẩm định 3.253 Giấy (xã Phiêng Luông 228 Giấy, Yên Phong 252 Giấy, Phú Nam 230 Giấy, Yên Cường 768 Giấy, Yên Định 752 Giấy, Đường Âm 880 Giấy, Đường Hồng 143 Giấy); Đối với 02 xã Thượng Tân và Minh Sơn: Hồ sơ đăng ký cấp giấy 02 xã này Văn phòng đăng ký đất đai đã thẩm định xong, hiện đang đang hoàn thiện và in Giấy chứng nhận. Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh tiến độ thực hiện, dự kiến hoàn thành Kế hoạch số 30/KH-STNMT trước ngày 31/12/2022.
Về hỗ trợ kinh phí để thực hiện cập nhật xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đối với những Giấy CNQSD đất đã được cấp theo Kế hoạch số 30/KH-STNMT. UBND tỉnh giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các sở ngành liên quan tham mưu lập kinh phí cho nhiệm vụ, thẩm định trình UBND tỉnh xem phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật trên cơ sở nguồn lực sẵn có của tỉnh.
5. UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành thực hiện kiểm tra thực tế. Ngày 18/10/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành kiểm tra tại công trình hồ chứa nước thải và bùn thải quặng đuôi của Công ty cổ phần đầu tư Khoáng sản An Thông tại nhà máy tinh quặng sắt Minh Sơn, thôn Bình Ba, xã Minh Sơn; kiểm tra hiện trạng tuyển quặng, công trình xử lý nước thải và bùn thải quặng đuôi của Công ty cổ phần thép An Khang tại thôn Nà Sáng, xã Minh Sơn. Kết quả kiểm tra thực tế cho thấy:
Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông đã chấp hành nghiêm túc công tác bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động của Nhà máy chế biến tinh quặng sắt Minh Sơn. Tại thời điểm kiểm tra hồ chứa nước thải và bùn thải của Nhà máy không có rò rỉ nước thải ra ngoài môi trường; tuy nhiên, khi trời mưa lớn có nguy cơ chảy tràn nước thải ra ngoài môi trường.
Công ty cổ phần thép An Khang đã lắp đặt máy móc, thiết bị tuyển và có hoạt động sơ chế, tuyển quặng tại khu vực thôn Nà Sáng (khu vực thực hiện giáp với thân quặng II, VI) khi chưa thực hiện các thủ tục về thiết kế xây dựng mỏ, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định.
Căn cứ kết quả kiểm tra, đoàn kiểm tra đã yêu cầu các công ty: Đối với Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông: Yêu cầu phải vận hành thường xuyên công trình xử lý nước thải và các công trình bảo vệ môi trường của Nhà máy chế biến tinh quặng sắt Minh Sơn, đảm bảo khi trời mưa lớn không chảy tràn nước thải từ hồ chứa nước thải ra ngoài môi trường.
Đối với Công ty cổ phần thép An Khang: Yêu cầu Công ty cổ phần thép An Khang thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Trong đó yêu cầu Công ty chấp hành nghiêm Thông báo số 148/TB-UBND ngày 29/8/2022 của UBND tỉnh Hà Giang; Dừng ngay hoạt động sơ tuyển, tuyển quặng tại khu vực thôn Nà Sáng (khu vực hiện nay Công ty đã lắp đặt máy móc, thiết bị tuyển); Thực hiện việc nạo vét khối lượng bùn thải phát sinh do quá trình sơ tuyển, tuyển quặng của Công ty đảm bảo không chảy ra môi trường khi có mưa; Chỉ được phép đi vào xây dựng và hoạt động khi đã hoàn thiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật (thủ tục thiết kế xây dựng sau thiết kế cơ sở, thủ tục về môi trường….).
6. Để khắc phục những tồn tại nêu trên trên địa bàn toàn tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT, UBND các huyện thành phố rà soát, đề xuất điều chỉnh quy hoạch ba loại rừng (tích hợp vào quy hoạch tỉnh) tại Văn bản số 959/UBND-KTTH ngày 08/4/2022 và giao Sở Nông nghiệp và PTNT xây dựng bản đồ ba loại rừng theo kết quả đề xuất điều chỉnh của các huyện tại Văn bản số 2094/UBND-KTTH ngày 15/7/2022.
Hiện nay, Sở Nông nghiệp và PTNT đang phối hợp với UBND các huyện, thành phố tiếp tục rà soát, để lập bản đồ ba loại rừng với quan điểm sẽ cân đối đưa ra ngoài quy hoạch đối với những diện tích đất người dân đang sử dụng ổn định lâu dài với mục đích ngoài lâm nghiệp. Tuy nhiên việc điều chỉnh quy hoạch đất lâm nghiệp và ba loại rừng phải đảm bảo chỉ tiêu phân bổ đất đai theo Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 09/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phân bổ chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021-2025.
Đề nghị cấp ủy, chính quyền các huyện, thành phố quan tâm chỉ đạo, phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT triển khai tổ chức thực hiện, đảm bảo không phát sinh những vấn đề vướng mắc sau khi Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
7. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra hiện trạng thực tế các vị trí cắm mốc giới rừng đặc dụng trên địa bàn xã Minh Sơn. Kết quả, các vị trí mốc giới được đặt tại các vị trí đúng ranh giới sử dụng đất và bản đồ ranh giới sử dụng đất của BQL rừng đặc dụng Du Già và đã được các bên ký xác nhận vào bản mô tả ranh giới mốc thửa đất ngày 16/6/2021. Các đơn vị liên quan đã họp bàn và trực tiếp giải thích làm rõ để cử tri hiểu và nhất trí.
8. Thực hiện quy định tại Khoản 23 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, ngày 08/11/2022 UBND tỉnh đã Quyết định số 42/2021/QĐ-UBND quy định cụ thể điều kiện tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất. Việc ban hành quyết định nêu trên tạo sự đồng bộ trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai; đồng thời, cũng hạn chế việc tách nhỏ thửa đất nông nghiệp, ngăn chặn tình trạng “chia nhỏ” thửa đất nông nghiệp và xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp. Về ý kiến của cử tri, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp thu ý kiến để nghiên cứu đưa vào đề xuất tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2013, nhằm tạo kiện thuận lợi cho người dân.
9. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND thành phố Hà Giang rà soát quỹ đất trên địa bàn thành phố và đề xuất vị trí đầu tư xây dựng khu vui chơi cho trẻ em để đưa vào quy hoạch phân khu 2 trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Sau khi Quy hoạch phân khu được phê duyệt UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo UBND thành phố triển khai thực hiện các bước tiếp theo để đầu tư xây dựngkhu vui chơi cho trẻ em theo ý kiến, kiến nghị của cử tri phường Nguyễn Trãi. |
1. Đề nghị tỉnh chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án và thực hiện đầu tư các công trình điện, viễn thông liên lạc; chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông xem xét nâng cấp và lắp đặt các trạm BTS tại các thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; khảo sát tại các khu vực chưa mạng internet hoặc có nhưng chất lượng không đảm bảo để người dân có điều kiện được tiếp cận thông tin đáp ứng theo đúng chủ trương chuyển đổi số, giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Hà Giang (cử tri huyện Vị Xuyên, Bắc Mê; xã Yên Hà, huyện Quang Bình; xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
2. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét, chỉ đạo ngành công thương, điện lực kiểm tra, rà soát lại việc bán điện qua công tơ tổng dẫn đến giá điện cao tại một số thôn, bản thuộc xã Sán Sả Hồ làm cho người dân rất khó khăn (cử tri xã Sán Sả Hồ, huyện Hoàng Su Phì).
3.Đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét lắp đặt trạm biến áp và nâng cấp đường dây kéo điện tại thôn Lùng Vái, hiện trạng cột điện gỗ, đường dây người dân trong thôn tự đầu tư từ kinh phí hỗ trợ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và đóng góp tự nguyện của người dân. Tuy nhiên, quá trình sử dụng không đảm bảo chất lượng nguồn điện (điện yếu), đường dây trùng, cột điện bằng gỗ không đảm bảo an toàn, dùng công tơ điện chung nên giá điện cao (cử tri xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
4. Đề nghị tỉnh quan tâm có lộ trình đầu tư, cải tạo lưới điện, nâng cấp trạm hạ thế, nâng công suất đảm bảo phục vụ nhu cầu của người dân (cử tri huyện Vị Xuyên).
5. Đề nghị xem xét đầu tư thêm một trạm biến áp và đường dây điện 0,4 KV đi đến các cụm khu dân cư của 02 thôn Khuổi Phạt, Khuổi Ít, xã Vĩnh Hảo vì hiện nay, thôn Khuổi Phạt và thôn Khuổi Ít đang dùng chung một trạm biến áp và chưa có đường dây điện dẫn đến một số cụm dân cư trong thôn (cử tri xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang).
6. Đề nghị đầu tư xây dựng Trạm Biến áp kéo điện lưới Quốc gia đến 9 khu dân cư trên địa bàn 9 thôn của xã Quang Minh (Pắc Há, Tân Lâm, Thống Nhất, thôn Nái, Pù Ngọm, Minh Tiến, Tân Thành, Minh Tân, thôn Chúa). Hiện tại nhiều hộ dân trên địa bàn 9 thôn nêu trên phải sử dụng Công tơ chung nên điện yếu và giá thành cao, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt của người dân (cử tri xã Quang Minh, huyện Bắc Quang).
7. Đề nghị tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng xem xét đưa vào sử dụng công trình điện ở thôn 5, 6 xã Túng Sán đã được đầu tư gần 2 năm nhưng đến nay chưa đóng điện để phục vụ sinh hoạt và sản xuất của người dân (cử tri xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì). |
1. Tính đến hết ngày 31/12/2021, Trên địa bàn toàn tỉnh còn 154 thôn chưa được phủ sóngdi động (chiếm 7,5%); 1.352 thôn chưa có cáp quang internet (chiếm 66,37%). Các thôn chưa được phủ sóng di động, chưa có cáp quang internet chủ yếu là các thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, dân cư thưa thớt. Để phát triển hạ tầng viễn thông, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày 17/8/2021 về việc phát triển hạ tầng viễn thông phục vụ chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó đã đề ra mục tiêu đến năm 2025 đầu tư mới 601 trạm thu phát sóng di động và phát triển mới internet băng rộng tới 931 thôn, bản trên toàn tỉnh. Ngoài ra, UBND tỉnh đã có đề xuất gửi Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các Tập đoàn viễn thông có chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng viễn thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang theo Chương trình viễn thông công ích (tại Văn bản số 868/UBND-KTTH ngày 01/4/2022). Trong 10 tháng đầu năm 2022, tỉnh đã thực hiện phủ sóng di động được 74 thôn.
Thực hiện Văn bản số 5563/BTTTT-CVT ngày 14/11/2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc tiếp tục rà soát, triển khai phủ sóng băng rộng di động cho các thôn chưa có sóng, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông, tiếp tục rà soát, lập danh sách bổ sung các thôn chưa có sóng di động gửi Bộ Thông tin và Truyền thông tổng hợp. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục để nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các Tập đoàn viễn thông có chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng viễn thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đồng thời chỉ đạo ngành Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với các đơn vị viễn thông phát triển hạ tầng viễn thông theo Kế hoạch đã đề ra.
2. Hiện nay trên địa bàn xã Sán Sả Hồ có 09 thôn với tổng số 431 hộ dân. Có 15 công tơ bán tổng cho 26 hộ sử dụng điện dùng chung (trong đó: có 01 công tơ đang bán tổng trên đường dây 0,4kV sau TBA Lủng Phạc được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đang được giao cho Điện lực tạm thời quản lý vận hành; 14 công tơ hiện đang bán tổng sau đường dây 0,4kV là tài sản của Điện lực). Qua kiểm tra, nhân dân mong muốn được bán lẻ điện trực tiếp đến các hộ dân sử dụng điện tại thôn Lủng Phạc, Lủng Dăm thuộc xã Sán Sả Hồ.
Đối với 01 công tơ dùng chung sau TBA Lủng Phạc do UBND huyện làm chủ đầu tư, hiện nay đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục bàn giao từ vốn ngân sách nhà nước sang ngành điện quản lý theo Quyết định 41/2017/QĐ-TTg ngày 15/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi hoàn thành, Ngành điện sẽ tiến hành lập phương án bản lẻ đến từng hộ dân sử dụng điện.
Đối 14 công tơ hiện đang bán tổng sau đường dây 0,4kV là tài sản của Điện lực tại thôn Lủng Phạc, Lủng Dăm thuộc xã Sán Sả Hồ. Do các hộ dân ở xa Trạm biến áp và ở cuối điểm các cột hạ thế, việc dùng chung dây dẫn nhỏ, đường dây dài nên gây tổn thất điện năng. Hiện tại do không có kinh phí để đầu tư dây dẫn riêng lẻ dẫn đến không thể dùng công tơ bán lẻ đến từng hộ dân. Trong thời gian tới, ngành Điện quan tâm hỗ trợ người dân đầu tư hệ thống dây dẫn và công tơ để thực hiện bán lẻ điện đến từng hộ dân.
Ủy ban nhân dân tỉnh giao Sở Công Thương tiếp tục kiểm tra, rà soát và tổng hợp các Hợp đồng mua bán điện đối với các hộ dân dùng chung công tơ tổng trên địa bàn tỉnh, báo cáo đề xuất với UBND tỉnh giải quyết đảm bảo công bằng và lợi ích của nhân dân, phù hợp với điều kiện thực tế, đồng thời đề nghị ngành Điện quan tâm hỗ trợ người dân đầu tư hệ thống dây dẫn và công tơ để thực hiện bán lẻ điện đến từng hộ dân.
3. Qua kiểm tra thực tế tình hình cấp điện tại thôn Lùng Váicó tổng số 100 hộ đã được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt 100%. Tuy nhiên đường dây sau công tơ dùng chung dài, cột gỗ, dây trùng, điện ápthấp.UBND huyện Quản Bạ đã rà soát, tổng hợp trình HĐND huyện Quản Bạ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-HĐND ngày 29/6/2022 của HĐND huyện phê duyệt chủ trương đầu tư danh mục các dự án, hạng mục, công trình sử dụng nguồn vốn đầu tư công thuộc cấp huyện quản lý năm 2022 (Bổ sung) và năm 2023: Công trình cấp điện thôn Lùng Vái xã Cán Tỷ với quy mô đường dây 35 kV, 01 trạm biến áp 100 kVA, đường dây 0,4 kV dài 3.500m; thời gian dự kiến xây dựng năm 2023-2024.
Trước mắt, để đảm bảo an toàn, chất lượng điện ổn định. UBND huyện Quản Bạ chỉ đạo phòng chuyên môn phối hợp Điện lực huyện cử cán bộ kỹ thuật tư vấn, trợ giúp, hướng dẫn các hộ dân thường xuyên duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế hệ thống sau công tơ đảm bảo kỹ thuật an toàn theo quy định.
4. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Vị Xuyên, Công ty Điện lực Hà Giang phối hợp với đơn vị có liên quan căn cứ vào Đồ án quy hoạch xây dựng vùng huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Gianggiai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; xây dựng lộ trình đầu tư cải tạo lưới điện, nâng cấp trạm hạ thế, nâng côngsuất đảm bảo phục vụ nhu cầu sử dụng điện của người dân trên địa bàn huyện Vị Xuyên giai đoạn 2022-2030. Theo đó, lộ trình đầu tư bao gồm: 33 công trình; năm 2022 đã triển khai thực hiện 06 công trình. Giai đoạn 2023-2030 sẽ tiếp tục đầu tư 27 công trình theo lộ trình đã xây dựng.
5. Qua kiểm tra, khảo sát tình hình thực tế về hạ tầng cấp điện tại thôn Khuổi Phạt và Khuổi Ít xã Vĩnh Hảo huyện Bắc Quang. Hiện nay, xã Vĩnh Hảo có tổng số 12 TBA với tổng dung lượng là1800 kVA. Hiện trạng lưới điện như sau: Thôn Khuổi Phạt có 02 TBA; thôn Khuổi Ít chưa có TBA nhưng đang sử dụng điện qua ĐZ 0.4 kVsau 02 TBA của thôn Khuổi Phạt. Về tình hình sử dụng điện, hiện cả hai thôn có 250 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt 100%. Tuy nhiên, một số nhóm hộ dùng chung công tơ và kéo dây sau công tơ dài từ 0,7 km đến 1,5 km, sử dụng dây dẫn tiết diện nhỏ, đã vận hành lâu năm gâymất an toàn điện, tổn thất điện năng cao. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu và đảm bảo sử dụng điện an toàn cho các hộ dân, tại thôn Khuổi Ít dự kiến đầu tư xây dựng 0.8 km ĐZ 35 kV; 01 TBAcông suất 250 kVA -35/0.4 kV và 02 km đường dây 0.4 kV sau TBA. UBND tỉnh đã chỉ đạo Công ty Điện lực thực hiện thay thế nâng tiết diện dây dẫn đường trục sau công tơ, thay thế cột gẫy hỏng không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để nâng cao chất lượng điện năng và an toàn trong việc sử dụng điện.
6. Quan kiểm tra, khảo sát tình hình thực tế về hạ tầng cấp điện tại Xã Quang Minh huyện Bắc Quang. Hiện nay trên địa bàn xã Quang Minh có tổng số 19 TBA với tổng dung lượng là 3750 kVA. Hiện trạng lưới điện tại các thôn như sau: Thôn Pắc Há có 03 TBA; thôn Tân Lâm chưa có TBA nhưng đang sử dụng điện qua ĐZ 0.4 kVsau TBA UB Quang Minh và TBA Bế Chiều; thôn Thống Nhất chưa có TBA nhưng đang sử dụng điện qua ĐZ 0.4kV sau TBA Bế Chiều và TBA Hoàng Văn Thụ; thôn Chúa có 01 TBA; tại thôn Minh Tiến có 01 TBA; thôn Tân Thành có 01 TBA; thôn Nái có 01 TBA. Về tình hình sử dụng điện, hiện các thôn đã có 100% số hộ dân được sử dụng điện từ lưới điện quốc gia. Tuy nhiên có nhiều nhóm hộ dùng chung công tơ và kéo dây sau công tơ dài từ 0,7 km đến 1,8 km, sử dụng dây dẫn tiết diện nhỏ, đã vận hành lâu năm gâymất an toàn điện, tổn thất điện năng cao. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu và đảm bảo sử dụng điện an toàn cho các hộ dân, dự kiến đầu tư xây dựng hệ thống cấp điện như sau: Tại thôn Nái: Xây dựng 0.5 km ĐZ 35 kV; 01 TBA công suất 180 kVA -35/0.4 kV và 02 km đường dây 0.4 kV sau TBA; Tại thôn Thống Nhất: Xây dựng 1.0 km ĐZ 35 kV; 01TBA công suất 180 kVA -35/0.4 kV và 02 km đường dây 0.4 kV sau TBA; Tại thôn Tân Lâm: Xây dựng 1.0 km ĐZ 35 kV; 01 TBAcông suất 180 kVA -35/0.4 kV và 1.5 km đường dây 0.4 kV sau TBA; Tại thôn Chúa: Xây dựng 0.5 km đường dây 0.4 kV sau TBA Thôn Chúa đang vận hành; Tại thôn Pắc Há và thôn Minh Tiến: Xây dựng 1.7 km (chia 03 nhánh) đường dây 0.4 kV sau các TBA TBA Pắc Há 2, Pắc Há 4, Pắc Há5 đang vận hành.
UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Công ty Điện lực thực hiện thay thế nâng tiết diện dây dẫn đường trục sau công tơ, thay thế cột gẫyhỏng không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để nâng cao chất lượng điện năng và antoàn trong việc sử dụng điện.
7. Công trình Cấp điện cho thôn 5, thôn 6 xã Túng Sán - huyện Hoàng Su Phì được khởi công xây dựng từ tháng 3/ 2020 và hoàn thành vào tháng 12/2021. Tuy nhiên, công trình còn một số tồn tại chưa đủ điều kiện để đóng điện như: Phát sinh nhà xây dựng mới vi phạm hành lang lưới điện, việc lắp đặt một số thiết bị của trạm biến áp chưa đảm bảo yêu cầu, mưa lũ làm xói lở đất dẫn đến một số vị trí cột có nguy cơ đổ phải tiến hành di chuyển... UBND tỉnh đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án ĐTXD công trình Dân dụng và Công nghiệp (Chủ đầu tư công trình) khẩn trương khắc phục hoàn thành các tồn tại, vướng mắc của dự án và nghiêm thu, đấu nối, bàn giao đưa vào sử dụng trong tháng 11/2022. |
1. Đề nghị tỉnh xem xét nghiên cứu có chính sách hỗ trợ bình ổn giá thức ăn chăn nuôi và phân bón. Hiện nay, thức ăn chăn nuôi và phân bón tăng giá mạnh đang gây khó khăn lớn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân (cử tri xã Lũng Cú, xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn; cử tri huyện Bắc Mê).
2. Đề nghị UBND tỉnh nghiên cứu xem xét trình HĐND tỉnh ban hành các cơ chế, chính sách để tiếp tục hỗ trợ về sản xuất nông nghiệp cho tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh (cử tri xã Bằng Lang, huyện Quang Bình).
3. Đề nghị UBND tỉnh kiểm tra hoạt động của công trình vườn ươm tại thôn Tân Chàng, xã Yên Hà (do Sở Nông nghiệp và PTNT quản lý) được đầu tư xây dựng từ năm 2012, hiện nay công trình đã xuống cấp nghiêm trọng, thời gian gần đây không hoạt động gây lãng phí tài sản của Nhà nước (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
4. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn sớm thực hiện việc giao đất, giao rừng cho nhân quản lý đối với diện tích đã thu hồi của Công ty lâm nghiệp Cầu Ham theo Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 02/7/2020 của UBND tỉnh về việc thu hồi đất của Công ty lâm nghiệp Cầu Ham giao cho UBND huyện Bắc Quang và UBND huyện Quang Bình quản lý điều chỉnh diện tích sử dụng đất Công ty lâm nghiệp Cầu Ham. Tuy nhiên, đến nay việc phối hợp của doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị có liên quan chưa tổ chức đi thực địa để bàn giao lại số diện tích đó (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
5. Đề nghị quan tâm sửa chữa, nâng cấp tuyến kênh mương của thôn Lùng Vi, xã Nà Khương (do Sở Nông nghiệp và PTNT làm chủ đầu tư) để phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho nhân dân của thôn, tuyến kênh có chiều dài 1,8km đã được đầu tư xây dựng từ năm 2010 nhưng đến nay đã bị hỏng, xuống cấp không sử dụng được (cử tri xã Nà Khương, huyện Quang Bình).
6. Đề nghị xem xét đầu tư xây dựng kè trước nhà lưu trú của học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Bản Nhùng, với chiều dài 63m, chiều cao 6m (cử tri xã Bản Nhùng, huyện Hoàng Su Phì).
7. Đề nghị tỉnh đầu tư xây dựng đập dâng nước (Sông Chảy) để tạo cảnh quan cho thị trấn phục vụ phát triển du lịch cho huyện (cử tri thị trấn Vinh Quang, huyện Hoàng Su Phì).
8. Đề nghị chỉ đạo chủ đầu tư là Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT kiểm tra công trình cấp nước sinh hoạt khu Trung tâm xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên mới được đầu tư đưa vào sử dụng nhưng hiện nay công trình không cấp được nước cho nhân dân (cử tri xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên). |
1. Do diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, thị trường thức ăn chăn nuôi và phân bón thế giới và trong nước biến động lớn, nguyên nhân chính là do giá nguyên liệu đầu vào chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu, chi phí vận chuyển tăng cao dẫn đến giá một số loại thức ăn chăn nuôi và phân bón liên tục tăng thời gian qua.UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành chuyên môn:
Tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, yêu cầu niêm yết giá công khai và không để xảy ra tình trạng bán hàng giả, hàng kém chất lượng và tình trạng đầu cơ, tích trữ, găm hàng, đẩy giá lên cao, góp phần ổn định thị trường lương thực thức ăn gia súc, gia cầm và vật tư nông nghiệp;
Thực hiện đào tạo, tập huấn, tuyên truyền cho nông dân sử dụng cácloại phân bón hữu cơ thay thế một phần phân bón hóa học nhằm giảm một phần chi phí trong sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất, tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ phù hợp, hiệu quả để áp dụng tại địap hương hướng tới phát triển nền nông nghiệp hữu cơ bền vững, đồng thời tuyên truyền người nông dân sản xuất nông nghiệp hạn chế tối đa việc sử dụng các hóa chất gây độc hại cho cây trồng và môi trường.
Qua đó giá các mặt hàng lương thực thức ăn gia súc, gia cầm và vật tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đã dần ổn định, cụ thể: Giá thức ăn gia súc, gia cầm tăng 11,07% so với quý III/2021, tăng 6,14% so với tháng 12/2021; Phân bón tăng 23,13% so với quý III/2021, 5 tháng đầu năm 2022 so vớitháng 12/2021 tăng 3,68-5,26%, sau đó từ tháng 6/2022 đến nay giảm dần xuống từ2,7-5,5% và giữ ổn định ở mức 18.000đ/kg đối với phân Ure Hà Bắc, giá 7.000đ/kg đối với phân lân NPK 5.10.3 Văn Điển.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị có liên quan tập trung thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng tăng giá bất thường các mặt hàng thức ăn chăn nuôi và phân bón. Đồng thời hỗ trợ người nông dân phát triển sản xuất, chăn nuôi thuộc các Chương trình mục tiêu Quốc gia thông qua các dự án, mô hình phát triển sản xuất, kinh doanh cho các đối tượng là các hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ dân tộc thiểu số, người cócông với cách mạng, phụ nữ thuộc hộ nghèo.
2. Đối với cơ chế, chính sách của Trung ương: Hiện nay Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có các chính sách về hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho các tổ chức, cá nhân. Năm 2022, Chính phủ đã giao vốn và UBND tỉnh đã phân bổ vốn cho các địa phương để thực hiện.
Đối với cơ chế, chính sách của tỉnh Hà Giang: Trong những năm qua UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành một số chính sách của địa phương hỗ trợ phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, gồm: (i) Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 19/7/2018 của HĐND tỉnh Phê duyệt chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Giang; (ii) Nghị quyết số 58/2020/NQ-HĐND ngày 9/12/2020 của HĐND tỉnh về chính sách đặc thù phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền vững cây Cam sành trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025; (iii) Nghị quyết 19/2020/NQ-HĐND ngày 10/7/2020 của HĐND tỉnh quy định nội dung chi, mức hỗ trợ cho các hoạt động khuyến nông trên địa bàn tỉnh Hà Giang; (iv) Nghị quyết số 15/2022/NQ-HĐND ngày 23/9/2022 của HĐND tỉnh Quy định nội dung hỗ trợ; mẫu hồ sơ; trình tự, thủ tục, lựa chọn dự án, kế hoạch, phương án sản xuất, lựa chọn đơn vị đặt hàng thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Như vậy, Trung ương và địa phương đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân phát triển sản xuất nông lâm nghiệp.
3. Công trình vườn ươm tại thôn Tân Chàng, xã Yên Hà thuộc dự án “Mở rộng vùng sản xuất giống cam sành Hà Giang theo tiêu chuẩn chất lượng tại huyện Quang Bình” được UBND tỉnh phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 382/QĐ-UBND ngày 06/3/2014. Đơn vị chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý các dự án PTNT trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT và được bàn giao cho Trung tâm KHKT giống cây trồng Đạo Đức sử dụng và khai thác từ ngày 11/7/2016. Ngày 03/10/2022, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT kiểm tra và làm rõ những nội dung cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình đã phản ánh(kết quả cho thấy thực trạng công trình, một số hạng mục đầu tư đã bị xuống cấp; tuy nhiên, hoạt động của Tổ sản xuất bảo tồn, lưu giữ cây đầu dòng vẫn được duy trì).
UBND tỉnh đã giao Sở Nông nghiệp và PTNT tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tập trung duy trì các hoạt động tại cơ sở Yên Hà và chăm sóc vườn cây ăn quả, chủ động bố trí kinh phí ưu tiên đầu tư sửa chữa hạng mục công trình đã xuống cấp; Tăng cường phối hợp, liên kết sản xuất giống cây lâm nghiệp, cây dược liệu; Phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh khai thác, sử dụng và quản lý công trình hiệu quả.
4. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với UBND các huyện Bắc Quang, Quang Bình rà soát xácđịnh chủ sử dụng đất, loại đất, diện tích để hoàn thiện phương án sử dụng quỹđất do UBND tỉnh thu hồi của các Công ty lâm nghiệp giao về cho UBNDhuyện Bắc Quang và Quang Bình quản lý; đồng thời chỉ đạo quyết liệt khắc phục những tồn tại, hạn chế đã nêu trong Kết luận Thanh tra số 146/KL-TTCP ngày ngày 26/01/2018 của Thanh tra Chính phủ. UBND tỉnh đã ban hành Thông báo số 192/TB-UBND ngày 02/11/2022 thông báo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Hoàng Gia Long - PCT Thường trực UBND tỉnh tại buổi làm việc bàn giải pháp đẩy nhanh tiến độ khắc phục những tồn tại theo Kết luận Thanh tra số 146/KL-TTCP ngày 26/01/2018 của Thanh tra Chính phủ, trong đó tiếp tục chỉ đạo: Các công ty lâm trường: Ngòi Sảo, Vĩnh Hảo, Cầu Ham khẩn trương có văn bản xin ý kiến Tổng Công ty Giấy Việt Nam có ý kiến chính thức về tổng diện tích quản lý sử dụng, diện tích rừng tự nhiên cắt trả lại cho địa phương quản lý.
UBND huyện Bắc Quang và Quang Bình đẩy nhanh tiến độ rà soát hoàn thiện phương án sử dụng đất để trình UBND tỉnh phê duyệt làm cơ sở cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân; phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường xây dựng kế hoạch cụ thể (gắn với tiến độ thời gian, trách nhiệm của các đơn vị liên quan) hoàn thiện phương án sử dụng đất theo hướng dẫn của Sở Tài nguyên và Môi trường để trình UBND tỉnh phê duyệt đối với diện tích các công ty lâm nghiệp cắt trả năm 2020 và việc đo đạc bản đồ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đối với diện tích đất UBND tỉnh đã thu hồi của 03 Công ty lâm nghiệp năm 2011; hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân trong năm 2023.
Kiểm tra nghiệm thu sản phẩm đo đạc bản đồ để thực hiện việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân; UBND huyện Bắc Quang chỉ đạo giải quyết dứt điểm những tồn tại của ký hợp đồng với các đơn vị tư vấn đo đạc đối với diện tích UBND tỉnh thu hồi đất năm 2011.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị có liên quan rà soát diện tích, loại đất của từng chủ sửdụng để xây dựng phương án sử dụng đất chi tiết đến từng thửa đất, chủ sử dụngđất đảm bảo phù hợp với địa phương đúng quy định của pháp luật.
5. Hiện nay nhu cầu sử dụng nước tưới cho sản xuất của nhân dân là rất cần thiết, bên cạnh đó do khó khăn về kinh phí nên việc bố trí vốn để duy tu, sửa chữa các công trình thủy lợi đã được đầu tư trước đây trên địa bàn tỉnh còn rất hạn chế. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quang Bình tổ chức khảo sát, cân đối nguồn lực, lập phương án để đầu tư sửa chữa, nâng cấp tuyến kênh mương của thôn Lùng Vi, xã Nà Khương phụcvụ nhu cầu sinh hoạt và tưới tiêu của người dân.
Kết quả thực hiện: Diện tích thu hồi đất của Cty lâm nghiệp Cầu Ham tại huyện Bắc quang là 632,16 ha; hiện nay có 427 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp); Diện tích thu hồi đất của cty lâm nghiệp Vĩnh Hảo tại huyện Bắc Quang là 719,42 ha; hiện nay có 602 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp); Diện tích thu hồi đất của cty lâm nghiệp Ngòi Sảo huyện Bắc Quang là 1.310,35 ha; hiện nay có 799 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp); Diện tích thu hồi đất của cty lâm nghiệp Cầu Ham tai huyện Quang Bình là 499,47ha; hiện nay có 341 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đấttrồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp).
6. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra thực tế, kết quả kiếm tra cụ thể như sau: Phần mặt bằng khu nhà sàn lưu trú học sinh Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Bản Nhùng hiện có 03 vị trí tiềm ẩn nguy cơ sạt lở gây ảnh hưởng đến các công trình phía trên, tổng chiều dài khoảng 63m; xác định ý kiến, kiến nghị của cử tri là cần thiết.
Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã giao UBND huyện Hoàng Su Phì cùng các đơn vị có liên quanxây dựng phương án khắc phục tránh không bị sạt lở. Đồng thời, UBND tỉnh sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng công trình nêu trên khi bố trí được nguồn lực trong thời gian tới.
7. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra thực tế theo ý kiến kiến nghị của cử tri, kết quả như sau: Qua kiểm tra, đánh giá mực nước lũ hằng năm, đoạn suối trước nhà khách Sông Chảy rất lớn, có năm mực nước lũ tràn qua cầu (cầu cao 4,85m, rộng 17,5m), hai bên bờ suối là nhà dân, diện tích thượng lưu rộng lớn. Nếu xây dựng đập dâng nước khu vực này sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy của lòng suối và nhà dân hai bên bờ suối vào mùa mưa. Đồng thời, phía thượng lưu thường hay bị sạt lở, dễ bị lũ ống, lũ quét, đất đá sẽ vùi lập lòng suối, ảnh hưởng nhà dân trên địa bàn thị trấn. Do đó, việc cử tri đề nghị xây đập dâng nước đoạn suối trước nhà khách Sông Chảy để tạo cảnh quan cần có sự tư vấn cụ thể từ các cơ quan chức năng của Tỉnh và Trung ương, mặt khác kinh phí đầu tư lớn, chưa thể cân đối bố trí. UBND tỉnh xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan xem xét tính khả thi để đưa vào kế hoạch đầu tư giai đoạn tới.
8. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT cùng các đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra thực tế tại công trình cấp nước sinh hoạt Trung tâm xã Trung Thành. Qua kiểm tra cho thấy công trình cấp nước sinh hoạt xã Trung Thành, hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng từ năm 2020, các hạng mục công trình như: Đập đầu nguồn, thiết bị lọc, tuyến đường ống dẫn nước chính vẫn hoạt động bình thường, hiện nay công trình vẫn đang cấp nước sinh hoạt cho toàn hệ thống công trình.
Tuy nhiên, tại thời điểm kiểm tra hiện trường, phát hiện có 02 vị trí của tuyến ống nhánh bị tắc, rò rỉnước (vị trí tuyến nhánh cấp nước xuống thôn Minh Thành và thôn Đồng.Nguyên nhân là do thi công nâng cấp tuyến đường thuộc Dự án “Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn” - Tiểu dự án tỉnh Hà Giang tại địa phận xã Trung Thành). Đến thời điểm ngày 18/10/2022, đơn vị thi công tuyến đường đã khắc phục lại những vị trí bị hỏng do làm đường gây ra. UBND tỉnh đã giao Sở Nông nghiệp và PTNT tiếp tục kiểm tra, giám sát, đảm bảo việc cấp nước sinh hoạt cho nhân dân. |
1.Đề nghị tỉnh quan tâm, nghiên cứu có cơ chế chính sách đặc thù hỗ trợ các xã sau khi hoàn thành Chương trình MTQG NTM, không còn được hưởng các chế độ chính sách hỗ trợ như: bảo hiểm y tế, giáo dục... (cử tri huyện Vị Xuyên).
2. Đề nghị tỉnh quan tâm, nghiên cứu triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 09-CT/TU, ngày 10/5/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng bài trừ các hủ tục lạc hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà Giang; Nghị quyết số 27-NQ/TU, ngày 01/5/2022 của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện xóa bỏ hủ tục, phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2022-2025, định hướng đến 2030. Đề nghị tỉnh có chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ thầy kèn, thầy trống vì đây chính là đội ngũ trực tiếp tuyên truyền, vận động và thực hiện đổi mới trong tang ma (cử tri xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc).
3. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm báo cáo HĐND tỉnh xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh quy định số lượng, chức danh đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã;mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với người hoạt động không chuyêntrách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; mức bồi đưỡng, mức phụ cấp đối với người trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang, cụ thể: Nâng mức phụ cấp hàng tháng của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự xã theo Nghị quyết 40/NQ-HĐND tỉnh từ 1,0 lên 1,5 (cử tri xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc)
Nâng mức hỗ trợ đối với lực lượng dân quân tự vệ cấp xã: (1) Mức chi trả ngày công lao động từ 130.000 đồng lên 150.000 đồng/người/ngày; (2) Mức hỗ trợ tiền ăn từ 65.000 đồng lên 80.000 đồng/người/ngày; (3) Hỗ trợ ban chỉ huy quân sự xã 20.000.000 đến 30.000.000 đồng/năm để phục vụ các hoạt động phát sinh trong năm (cử tri xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
4. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm báo cáo HĐND tỉnh xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 22/NQ-HĐND ngày 15/7/2011 của HĐND tỉnh về ban hành chính sách hỗ trợ học sinh bán trú, học sinh nghèo không thuộc đối tượng hưởng theo quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 và Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ; chính sách hỗ trợ đối với cán bộ quản lý, người phục vụ học sinh bán trú tại các trường phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang: Đề nghị sửa đổi, bổ sung thêm 02 đối tượng: (1) cán bộ y tế trường học; (2) cán bộ thư viện cũng được hưởng chính sách hỗ trợ như đối với đối với cán bộ giáo viên quản lý học sinh bán trú, vì trên thực tế hiện nay 02 vị trí cán bộ này đều tham gia quản lý học sinh bán trú (cử tri xã Giàng Chu Phìn, huyện Mèo Vạc).
5.Đề nghị tỉnh xem xét nghiên cứu trình HĐND tỉnh sửa đổi Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh quy định mức thu, các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang, theo đó nâng mức thu tiền vệ sinh lớp học; học phẩm phục vụ thi khảo sát chất lượng do mức thu theo quy định hiện hành không đáp ứng chi cho hoạt động của các nhà trường; đồng thời hướng dẫn việc bù chi đối với những khoản miễn giảm của học sinh (cử tri phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang).
6. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm báo cáo HĐND tỉnh xem xét, sửa đổi Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh quy định mức thu, các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang: Đề nghị sửa đổi về khoản tiền dịch vụ hỗ trợ “Dạy tăng cường ngoại ngữ, dạy song ngữ cho học sinh từ lớp 3 đến lớp 12; tổ chức dạy học cho trẻ làm quen với ngoại ngữ ở mầm non và học sinh lớp 1, lớp 2; dạy học tăng cường đối với các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông; dạy học bồi dưỡng; dạy học ôn thi (theo hình thức tự nguyện trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất với cha mẹ học sinh)” theo hướng mở, phù hợp với thực tế (Không quy định cứng nhắc mức tối thiểu 7.000 đồng, tối đa 8.000 đồng /tiết học/học sinh – Tối đa không quá 3 tiết/buổi) như hiện nay để các trường chủ động hợp tác, chi trả tiền cho giáo viên được mời thỉnh giảng (Cử tri Trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hà Giang).
7. Đề nghị UBND tỉnh sớm có Quyết định về điều chỉnh địa giới hành chính có liên quan đến xã Xuân Giang và xã Yên Hà, huyện Quang Bình. Từ năm 2017, Sở Nội vụ chủ trì phối hợp với UBND huyện Quang Bình, UBND xã Xuân Giang, xã Yên Hà, Ban quản lý thôn Tịnh xã Xuân Giang, thôn Trung Thành xã Yên Hà tổ chức hiệp thương về việc quản lý sử dụng đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa 2 xã Xuân Giang và xã Yên Hà, kết quả hiệp thương đã thống nhất điều chỉnh 300 ha đất các loại (đất lúa, vườn tạp, vườn rừng và thổ cư) từ xã Xuân Giang về địa giới xã Yên Hà quản lý (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
8. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm có các giải pháp khắc phục tình trạng thiếu giáo viên bộ môn (tin học và ngoại ngữ) trên địa bàn tỉnh Hà Giang (cử tri các xã huyện Vị Xuyên).
9. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm, xem xét về giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm theo vị trí việc làm thay cho việc giao trên tổng số biên chế hiện có như hiện nay để các đơn vị trường học chủ động hợp đồng giáo viên và thanh toán tiền thừa giờ cho giáo viên (cử tri ngành Giáo dục - Đào tạo, thành phố Hà Giang).
10. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm, cân đối chỉ tiêu tinh giảm biên chế giữa các ngành theo hướng hạ thấp chỉ tiêu cho Ngành Giáo dục – Đào tạo thấp hơn 10% như chỉ tiêu giao hiện nay do Ngành Giáo dục và Đào tạo đang thiếu giáo viên (cử tri ngành Giáo dục - Đào tạo, thành phố Hà Giang).
11. Đề nghị UBND tỉnh sớm tổ chức thi/xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên công lập các cấp hiện nay đủ các điều kiện, tiêu chuẩn chưa được thăng hạng và xếp ngạch theo ngành học tương ứng. Đồng thời, xem xét bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các Trường THCS công lập theo Thông tư số số 03/2021/TT-BGDĐT ngày 02/02/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (cử tri xã Bằng Lang, huyện Quang Bình; cử tri xã Bạch Đích, huyện Yên Minh).
12. Đề nghị tỉnh có cơ chế xét tuyển thẳng học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi từ cấp tỉnh vào học tại Trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hà Giang; Trường THCS Lý Tự trọng, huyện Vị Xuyên, Trường Lương Thế Vinh, huyện Bắc Quang (cử tri Trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hà Giang).
13.Đề nghị tỉnh bố trí kinh phí để trang cấp đồng bộ trang thiết bị dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông, mới năm 2018 và trang thiết bị phòng học thông minh (cử tri ngành Giáo dục - Đào tạo, thành phố Hà Giang).
14.Cử tri đề nghị tỉnh kiến nghị với Trung ương một số chính sách về giáo dục, cụ thể:(i) Có chính sách hỗ trợ ăn trưa cho trẻ từ 0-2 tuổi có hộ khẩu thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn để thực hiện chương trình dạy học 2 buổi/ngày bắt buộc và đảm bảo duy trì tỷ lệ trẻ 0-2 tuổi đến trường đạt mức cao. (ii) Xem xét bổ sung đối tượng được hưởng chính sách đối với giáo viên mầm non trực tiếp dạy 02 buổi/ngày hoặc trực tiếp dạy tăng cường Tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên tại trường chính ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn. Hiện tại Nghị định số 105/2020/NĐ-CP ngày 08/9/2020 của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non không quy định đối với 02 nội dung này (cử tri xã Bạch Đích, huyện Yên Minh).
15. Đề nghị tỉnh xem xét nâng mức phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và nâng mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã khi kiêm nhiệm chức danh được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm lên 100% (cử tri xã Nà Khương, Tiên Yên, huyện Quang Bình).
16. Đề nghị tỉnh xem xét chỉ đạo cơ quan chức năng hướng dẫn trình tự, thủ tục hưởng chế độ chính sách theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg và Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đối với những đối tượng bị sai lệch về thông tin cá nhân trong hồ sơ để thực hiện thống nhất trên địa bàn toàn tỉnh (cử tri các xã huyện Hoàng Su Phì).
17. Đề nghị tỉnh xem xét nghiên cứu chế độ chính sách đặc thù để hỗ trợ cho các đối tượng thuộc diện tinh giảm biên chế theo Quyết định số 32/2020/QĐ-UBND ngày 25/11/2020 của UBND tỉnh (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì). |
1.Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 25/2021/QH15; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết định phê duyệt, Chương trình sẽ tập trung nguồn lực bố trí cho các xã đã hoàn thành Chương trình MTQG NTM để duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Nguồn vốn năm 2022 đã được Trung ương và UBND tỉnh thực hiện phân bổ 100% cho các huyện, thành phố triển khai thực hiện. Về các chính sách hỗ trợ như bảo hiểm y tế, giáo dục…, sau khi xã được công nhận hoàn thành xây nông thôn mới thì không còn được được các chế độ như năm 2020 trở về trước là đúng quy định theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bàodân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025. UBND tỉnh đã chỉ đạo sở ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến người dân, nhất là các chủ trương, chính sách liên quan đến chế độ, chính sách của người dân hiện nay, để người dân hiểu và thực hiện; đồng thời tiếp tục kêu gọi, vận động quỹ hỗ trợ khuyến học đối với học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn trên tại các xã khu vực I trên địa bàn huyện (quan tâm đến học sinh của các xã đã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nhưng gia đình còn khó khăn).
2. Thực hiện Chỉ thị và Nghị quyết của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng bài trừ các hủ tục lạc hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà Giang, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình số 199/CT-UBND ngày 09/7/2021 và Kế hoạch số 175/KH-UBND ngày 01/7/2022 để triển khai thực hiện. Căn cứ Kế hoạch đã ban hành, các ngành, các cấp đã và đang tập trung quyết liệt tổ chức các hoạt động tuyên truyền, hội thảo, bảo tồn các giá trị di sản văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; tuyên truyền vận động xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong cộng đồng xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và trong sinh hoạt đời sống gắn với các nội dung, hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Về chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ thầy kèn, thầy trống: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho hoạt động của Hội nghệ nhân dân gian theo Nghị quyết số 56/2021/NQ-HĐND ngày 03/12/2021 của HĐND tỉnh, trong đó hỗ trợ hoạt động của Hội nghệ nhân dân gian theo Kết luận số 08-KL/TU ngày 24/11/2020 của Thường trực Tỉnh ủy và Kế hoạch số 174/KH-UBND ngày 09/6/2021 của UBND tỉnh: 10 triệu đồng/hội/năm. Đồng thời, UBND tỉnh cũng chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các ngành có liên quan, UBND các huyện, thành phố tập trung nghiên cứu đề xuất ban hành các cơ chế chính sách đối với công tác bảo tồn văn hóa, xóa bỏ hủ tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh; chính sách hỗ trợ đối với người trực tiếp trông coi di tích và nghệ nhân lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3. Về việc nâng mức phụ cấp hàng tháng của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự xã: HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND ngày 15/7/2022 sửa đổi một số điều của Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND. Trong đó đã thực hiện nâng mức bồi dưỡng đối với người tham gia công việc khác ở thôn, tổ dân phố. Chức danh Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự có nhiệm vụ, thời gian làm việc tương đồng với những người hoạt động không chuyên trách khác ở cấp xã và đã được quy định mức phụ cấp tương đối cao: với hệ số 1,0; khi kiêm nhiệm 2 chức danh, người hoạt động không chuyên trách sẽ được hưởng phụ cấp có hệ số 1,8 (hệ số này đã gần ngang bằng với công chức xã). Ngoài ra khi so sánh với mức khoán của Trung ương tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ, hằng năm, ngân sách tỉnh phải đảm bảo thêm 82,3 tỷ đồng/năm để chi cho đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; đây là khoản kinh phí lớn địa phương phải cân đối bổ sung thêm so với mức khoán của Trung ương. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nội vụ tiếp thu ý kiến của cử tri để nghiên cứu, tham mưu các nội dung đảm bảo quy định của pháp luật.
Về việc nâng mức hỗ trợ cho lực lượng dân quân tự vệ:
(i) Về kiến nghị nâng mức chi trả ngày công lao động từ 130.000 đồng lên 150.000 đồng/người/ngày:
Căn cứ quy định tại Nghị định số 72/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Dân quân tự vệ về tổ chức xây dựng lực lượng và chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 34/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 quy định mức trợ cấp ngày công lao động cho dân quân trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Mức trợ cấp ngày công lao động cho dân quân khi được huy động làm nhiệm vụ là 130.000 đồng/người/ngày, tăng 9% so với mức tối thiểu quy định tại Nghị định số 72/2020/NĐ-CP của Chính phủ (mức tối thiểu TW quy định 119.200 đồng/người/ngày).
Với mức trợ cấp ngày công lao động tại Nghị quyết số 34/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh, hàng năm ngân sách địa phương phải bố trí trong dự toán chi thường xuyên số tiến 27.184 triệu đồng để đảm bảo (NSTW không hỗ trợ). Nếu tiếp tục điều chỉnh mức trợ cấp ngày công lao động theo kiến nghị của cử tri thì nhu cầu kinh phí thực hiện chính sách tăng thêm khá lớn, sẽ vượt quá khả năng cân đối của NSĐP.
(ii) Mức hỗ trợ tiền ăn từ 65.000 đồng lên 80.000 đồng/người/ngày.
Theo điểm b, Khoản 1, Điều 11 -Nghị định số 72/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Dân quân tự vệ về tổ chức xây dựng lực lượng và chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ quy định: “Mức tiền ăn bằng tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh đang tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.” Tại Thông tư số 168/2021/TT-BQP ngày 18/12/2021 của Bộ Quốc phòng quy định tiêu chuẩn, định lượng ăn và mức tiền ăn cơ bản bộ binh, quân binh chủng, binh chủng, bệnh nhân điều trị, học viên quân sự quốc tế; ăn thêm ngày lễ, tết khi làm nhiệm vụ; chế độ ăn, bồi dưỡng hàng năm quy định tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh là 65.000 đồng/người/ngày.
Việc quy định mức hỗ trợ tiền ăn đối với lực lượng dân quân khi làm nhiệm vụ bằng tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Quốc phòng. Tỉnh không có thẩm quyền quy định điều chỉnh tăng mức tiền ăn từ 65.000 đồng lên 80.000 đồng/người/ngày theo kiến nghị của cử tri.
(iii) Hỗ trợ ban chỉ huy quân sự xã 20.000.000 đến 30.000.000 đồng/năm để phục vụ các hoạt động phát sinh trong năm
Theo quy định tại Điều 20, Luật Dân quân tự vệ 2019 Ban chỉ huy quân sự cấp xã là cơ quan thường trực công tác quốc phòng ở cấp xã, trong đó: Thành phần gồm Chỉ huy trưởng là Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp xã, sĩ quan dự bị; Chính trị viên do Bí thư cấp ủy cấp xã đảm nhiệm; Chính trị viên phó do Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp xã đảm nhiệm; Phó Chỉ huy trưởng là người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Như vậy, Ban chỉ huy quân sự xã là một cơ quan thường trực công tác quốc phòng ở cấp xã và được UBND xã, phường, thị trấn đảm bảo kinh phí hoạt động để thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng ở cấp xã. Do đó khi có các nhiệm vụ phát sinh trong năm đề nghị Ban chỉ huy quân sự xã báo cáo UBND xã hỗ trợ kinh phí (trong dự toán chi thường xuyên NSNN hàng năm của ngân sách cấp xã) để thực hiện.
Căn cứ dự toán tỉnh giao hàng năm theo định mức phân bổ (có định mức cho hỗ trợ lĩnh vực quốc phòng) UBND huyện Quản Bạ bố trí dự toán chi hỗ trợ hoạt động của ban chỉ huy quân sự xã trong dự toán chi thường xuyên giao hàng năm cho các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
4. UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng dự thảo “Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ đối với học sinh đang học bán trú, học sinh nghèo không thuộc đối tượng hỗ trợ của Nghị định 116/2016/NĐ-CP của Chính
phủ; người làm công tác quản lý học sinh bán trú tại các trường phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang”để thay thế cho Nghị quyết số 22/2011/NQ-HĐND ngày 15/7/2011. Tuy nhiên, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng “Nghị định quy định chính sách học sinh, họcviên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có học sinh hưởng chính sách” để thay thế cho Nghị định số 116/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Vì vậy, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế cho Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo ngành GD&ĐT nghiên cứu, hoàn thiện Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 22/2011/NQ-HĐND trình HĐND tỉnh ban hành.
5. Đối với nội dung về mức thu tiền vệ sinh lớp học: Mục đích thực hiện khoản thu tiền vệ sinh trong nhà trường là để chi trả tiền thù lao thuê lao công dọn dẹp vệ sinh và tiền mua thiết bị vệ sinh. Theo quy định tại Nghị định số 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022 của Chính phủ, mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao độngđối với địa bàn thành phố Hà Giang là 3.640.000 đồng/tháng, đối với các huyện cònlại 3.250.000 đồng/tháng. Qua khảo sát, trung bình mỗi trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang có khoảng 420 học sinh, với mức thu như hiện tại thì bình quân mỗi trường thu từ người học khoảng 4.200.000 đồng/tháng. Số tiền này đã đảm bảo chi trả cho công tác vệ sinh lớp học, đồng thời vẫn có khoảng dư đảm bảo chi trả nếu thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trong những năm tiếp theo. Đối với chi phí về phương tiện và công cụ để thực hiện công tác vệ sinh, nhà trường chi trả từ nguồn ngân sách sự nghiệp giáo dục hàng năm được cấp. Do đó mức thu theo quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND là hoàntoàn phù hợp đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện nay.
Đối với mức thu tiền học phẩm phục vụ kiểm tra, thi khảo sát chất lượng:
Theo Chương trình giáo dục đào tạo hiện hành thì tần suất, số lượng các bài kiểm tra, thi khảo sát chất lượng trong một năm học của từng cấp học và mức thu tiền học phẩm phục vụ kiểm tra, thi khảo sát chất lượng quy định tạiNghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND như sau:
STT |
Lớp/cấp học |
Số bài kiểm tra |
Số tờ/bài |
Tổng số tờ |
Đơn giá sao in đề kiểm tra (đồng/tờ) |
Thành tiền |
Mức thu học phẩm phục vụ kiểm tra, thi khảo sát chất lượng quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND |
Mức thu tối thiểu |
Mức thu tối đa |
1 |
Lớp 1, lớp 2 |
4 |
2 |
8 |
300 |
2.400 |
3.200 |
4.000 |
2 |
Lớp 3 |
8 |
2 |
16 |
300 |
4.800 |
6.400 |
8.000 |
3 |
Lớp 4, lớp 5 |
16 |
3 |
48 |
300 |
14.400 |
19.200 |
24.000 |
4 |
Cấp THCS, THPT |
48 |
4 |
192 |
300 |
57.600 |
76.800 |
96.000 |
5 |
GDTX |
32 |
4 |
128 |
300 |
38.400 |
51.200 |
64.000 |
Đối chiếu giữa mức thu quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND và chi phí để sao in đề kiểm tra thì mức thu này hoàn toàn phù hợp để các nhà trường triển khai thực hiện. Đối với nội dung bù chi những khoản miễn giảm của học sinh: Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND quy định mức thu các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục công lập mục đích là để phục vụ người học. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn đơn vị có liên quan rà soát, tổng hợp các khoản được miễn giảm và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, bổ sung kinh phí từ nguồn ngân sách sự nghiệp giáo dục đào tạo theo phân cấp quản lý ngân sách hiện hành.
6. Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh quy định mức thu đối với “Dạy học tăng cường ngoại ngữ, dạy song ngữ cho học sinh tư lớp 3 đến lớp 12; tổ chức dạy học cho trẻ em làm quen với ngoại ngữ ở mầm non và học sinh lớp 1, lớp 2; dạy học tăng cường đối với các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông; dạy học bồi dưỡng; dạy học ôn thi” mức thu: từ 7.000 – 8.000 đồng/hs/tiết, mỗi buổi không quá 03 tiết nhằm mục đích: Đảm bảo sự thống nhất về mức thu tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh; đảm bảo chế độ thù lao cho người trực tiếp giảng dạy và công tác quảnlý dạy - học, bổ sung cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục; đảm bảo chế độ làm thêm giờ đối với cán bộ quản lý, giáo viên theo các văn bản hướng dẫn hiện hành của Bộ GD&ĐT; phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong giai đoạn hiện nay. Do vậy mức thu hiện nay quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Mặt khác, nếu để các cơ sở giáo dục chủ động đưa ra định mức thu đối với các nội dung này sẽ xảy ra một số bất cập nhất định như: Mức thu tại các cơ sở giáo dục trên cùng địa bàn, cùng nơi có điều kiện phát triển kinh tế xã hội như nhau có thể khác nhau; Dễ xảy ra tình trạng lạm thu tại các cơ sở giáo dục, dẫn tới đơn thư, khiếu nại tố cáo đối với các cơ sở giáo dục gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm tra, giám sát.
7. Thực hiện Quyết định số 513/QĐ-TTg ngày 02/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án "Hoàn thiện, hiện đại hóahồ sơ, bản đồ địa giới hành chính và xây dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành chính", trong giai đoạn 2012-2020, UBND tỉnh đã giao Sở Nội vụ phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai dự án 513 trên địa bàn toàn tỉnh. Quá trình triển khai dự án, các bất cập về địa giới hành chính trên địa bàn toàn tỉnh cơ bản đã được hiệp thương, điều chỉnh cho phù hợp. Trong đó, tuyến địa giới hành chính giữa xã Yên Hà với xã Xuân Giang, huyện Quang Bình đã được hiệp thương điều chỉnh trong bản đồ mới. Bộ hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính 513 tỉnh Hà Giang đã được Trung ương nghiệm thu và đưa vào quản lý, sử dụng từ 01/01/2021.
8. Trước tình hình thiếu giáo viên Tiếng Anh, Tin học, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành GD&ĐT chủ động phối hợp với UBND các huyện, thành phố triển khai thực hiện và tập trungmột số giải pháp như sau:
(i) Rà soát, sắp xếp định mức học sinh/lớp đạt mức tối đa theo quy định của Bộ GD&ĐT và phù hợp với thực tiễn địa phương (Tiểu học không quá 35 HS/lớp; THCS trở lên không quá 45 HS/lớp).
(ii) Sắp xếp tổ chức lại các cơ sở giáo dục đảm bảo hoạt động hiệu quả: Dồn dịch điểm trường để đưa học sinh Tiểu học tư điểm trường về trường chính (nhất là từ lớp 3); Thành lập các trường PTDT nội trú THCS&THPT (sử dụng tối đa giáo viên văn hóa của các Trung tâm GDNN-GDTX các huyện); thực hiện và tiếp tục xây dựng kế hoạch sáp nhập các cơ sở giáo dục có quy mô nhỏ dưới 10 lớp.
(iii) Ngay sau khi Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư 32/TT-BGDDT về Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (ngày 26/12/2018), UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch về đào tạo Văn bằng 2 cho giáo viên phổ thông dạy môn Tin học, Tiếng Anh, Âm nhạc, Mỹ thuật để thực hiện Chương trình GDPT 2018; năm 2020 ngành GD&ĐT đã cử được 303 giáo viên đi đào tạo Văn bằng 2 (tiếng Anh 34, Tin học 221, Âm nhạc 24, Mỹ thuật 24). Số giáo viên này có thể bắt đầu tham gia giảng dạy ngay từ năm học 2022-2023 sau khi tốt nghiệp.
(iv) Tuyên truyền, vận động đội ngũ nhà giáo dạy thêm giờ, tăng tiết; bố trí một giáo viên giảng dạy nhiều trường/nhiều cấp (có thể và từ cấp THPT đến cấp tiểu học) trên cùng địa bànvà theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT.
(v) Hợp đồng giáo viên (trong số chỉ tiêu biên chế được giao chưa sử dụng) theo Nghị quyết 102/NQ-CP ngày 03/7/2020 của Chính phủ về giải pháp đối với biên chế sự nghiệp giáo dục và y tế. Tiếp tục rà soát, đề xuất phương án để xin chủ trương tuyển dụng giáoviên trong số chỉ tiêu biên chế được giao chưa sử dụng.
(vi) Bố trí dạy học trực tuyến (đối với môn tiếng Anh do thiếu giáo viên và thiếu nguồn tuyển/hợp đồng) ở những nơi thuận lợi, đảm bảo về trang thiết bị, điều kiện để tổ chức dạy học trực tuyến, đồng thời bố trí giáo viên tiếng Anh đến dạy học trực tiếp ở những nơi khó khăn/không có điều kiện tổ chức dạy học trực tuyến.
(vii) Nghiên cứu, tham mưu triểnkhai thực hiện việc phát triển nhóm, lớp tư thục mầm non, phổ thông ở những nơi/vùng có điều kiện thuận lợi (Nội dung trongNghị quyết số 06 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ngày 10/5/2021 về phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2020 - 2025) nhằm giảm phần nào áp lực về biên chế giáo viên, đồng thờiưu tiên biên chế để đề xuất tuyển dụng giáo viên cho các cơ sở giáo dục ở vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn.
Với các giải pháp nêu trên, đến nay trên địa bàn tỉnh, các đơn vị trường học đã tổ chức thực hiện giảng dạy môn Tiếng Anh, Tin học cho học sinh, cơ bản đáp
ứng công tác dạy và học.
9. Quy định về việc giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm: Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập đã ban hành và giao cho các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành Trung ương vẫn chưa ban hành Thông tư hướng dẫn. Do đó chưa có cơ sở để thực hiện giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm theo vị trí việc làm. Hiện nay trên địa bàn các tỉnh trong cả nước vẫn đang triển khai giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm trên tổng số biên chế hiện có. Năm 2022, UBND tỉnh Hà Giang thực hiệngiao dự toán chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục theo chỉ tiêu biên chế được UBND tỉnh giao theo đúng Nghị quyết số 56/2021/NQ-HĐND ngày 03/12/2021 của HĐND tỉnh về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSĐP năm 2022. Trong thời gian tới, sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành Trung ương ban hành hướng dẫn thực hiện Nghị định số 106/2020/NĐ-CP; UBNDtỉnh sẽ chỉ đạo các Sở, ngành và UBND cấp huyện triển khai thực hiện việc giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm theo vị trí việc làm, đảm bảo theo đúng quy định.
Về quy định hợp đồng giáo viên trong các đơn vị sự nghiệp công lập: Tại mục 3, Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 05/7/2020 của Chính phủ về giải pháp đối với biên chế sự nghiệp giáo dục và y tế quy định: “Đơn vị sự nghiệp giáo dục và y tế công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp giáo dục và y tế công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên được ký hợp đồng lao động (dưới 12 tháng) đối với các vị trí việc làm là giáo viên và viên chức y tế trong phạm vi số lượng biên chế viên chức được cấp có thẩm quyền giao và theo định mức quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế để kịp thời thay cho số giáo viên và viên chức y tế nghỉ thai sản và nghỉ hưu theo chế độ (chưa kịp tuyển dụng thay thế) và để bố trí giáo viên dạy buổi thứ 02 trong ngày (đối với những cơ sở giáo dục dạy 02 buổi/ngày). Hằng năm, cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng viên chức phải tổ chức tuyển dụng để thay thế cho số giáo viên và viên chức ytế còn thiếu, bảo đảm đủ số lượng người làm việc được cơ quan có thẩm quyền giao. Không để kéo dài hợp đồng lao động làm chuyên môn quá 12 tháng đối với vị trí việc làm là giáo viên và viên chức y tế.”. Như vậy, trường hợp các trường chưa tuyển dụng đủ giáo viên theo biên chế giao thì được ký hợp đồng lao động (dưới 12 tháng) đối với chỉ tiêu biên chế còn thiếu hoặc thanh toán tiền thêm giờ cho giáo viên theo quy định.
10. Tại Kết luận số 40-KL/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về nâng caohiệu quả công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị gia đoạn 2022 - 2026; Quyết định số 72-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về biên chế các cơ quan đảng, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy khối trực thuộc Trung ương giai đoạn 2022-2026. “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Giai đoạn 2021 - 2026, toàn hệ thống chính trị tinh giản ít nhất 5% biên chế cán bộ, công chức và ít nhất 10% biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Như vậy, theo chủ trương của Trung ương thì việc thực hiện tinh giản biên chế công chức, viên chức được thực hiện trong toàn hệ thống chính trị, chưa có văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể việc hạ thấp chỉ tiêu tinh giản biên chế viên chức cho Ngành Giáo dục - Đào tạo thấp hơn 10%.
11. Theo quy định tại khoản 1, Điều 31 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ: Việc thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và phù hợp vớicơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp của đơn vị sự nghiệp công lập đãđược cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tháng 6/2022UBND tỉnh đã phê duyệt vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp; đây là để xác định chỉ tiêu thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức:
Về thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng IV lên hạng III đối với ngành Giáo dục: UBND tỉnh đã giao UBND các huyện và thành phố thực hiện việc chuyển xếp từ hạng IV lên hạng III đối với viên chức theo quy định tại cácThông tư số 01,02/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, không phải xét thăng hạng từ hạng IV lên hạng III (Công văn số 1098/UBND-NCPC ngày15/4/2021 của UBND tỉnh).
Về thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II đối với ngành Giáo dục: UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Nội vụ căn cứ vào vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và trên cơ sở đăng ký của các cơ quan, đơn vị, tham mưu xây dựng Đề án thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lênhạng II trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện.
Việc bổ nhiệm, xếp lương đối với viên chức theo quy định tại các Thông tư số 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nội vụ, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơquan, đơn vị liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền thammưu triển khai thực hiện theo đúng quy định hiện hành.
12. Hiện nay, cấp Tiểu học không có Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, chỉ có Cuộc thi giao lưu mang tính chất động viên, khích lệ các em học sinh. Đồng thời, việc tuyển sinh vào lớp 6 cấp Trung học cơ sở đang được thực hiện theo phương thức xét tuyển. Tuy nhiên trong các trường hợp cơ sở giáo dục có số học sinh đăng ký vào học lớp 6 nhiều hơn chỉ tiêu tuyển sinh, Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ hướng dẫn thực hiện phương án tuyển sinh theo phương thức xét tuyển hoặc kết hợp xét tuyển với kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh.
13. Đối với việc trang cấp đồng bộ thiết bị dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông năm 2018: Căn cứ Kế hoạch thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1, lớp 2, lớp 6 cho các cơ sở giáo dục. Đến năm học 2022-2023, 100% số trường Tiểu học, TH&THCS đã được trang cấp thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1 và lớp 2; 95,4% số trường THCS,THCS&THPT đã được trang cấp thiết bị dạy học tối thiểu lớp 6. Danh mục các thiết bị được trang cấp theo đúng danh mục đã được quy định tại Thông tư số 05/2019/TT-BGDĐT ngày 05/4/2019, Thông tư số 43/2020/TTBGDĐT ngày3/11/2020 và Thông tư số 44/2020/TT-BGDĐT ngày 03/11/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, Sở Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục triển khai mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu cho các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở Tài chính phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và UBND các huyện, thành phố căn cứ khả năng cân đối của ngân sách địa phương báo cáo UBND tỉnh để mua sắm trang thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông; đồng thời thực hiện lồng ghép từ các nguồn vốn khác để đảm bảo trang cấp đồng bộ thiết bị dạy học theo chương trình giáo dụcphổ thông năm 2018.
Đối với việc trang cấp phòng học thông minh: Để đầu tư cho 01 lớp học thông minh cần có các thiết bị sau: Màn hình tương tác thông minh; máy tính bảng/máy tính dành cho học sinh; tai nghe cho học sinh; hệ thống mạng không dây; hệ thống âm thanh lớp học; hệ thống camera ghi hình, trợ giảng, dự giảng từ xa; phần mềm dạy học trực tuyến và quản lý học sinh; tủ sạc và bảo quản thiết bị di động. Hiện nay các lớp học đã được trang bị màn hình tương tác thông minh; phần mềm dạy học trực tuyến và quản lý học sinh. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo ngành Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, tham mưu đề xuất triển khai thí điểm phòng học thông minh trên địa bàn Thành Phố Hà Giang để đánh giá hiệu quả và làm cơ sở đề xuất triển khai trên diện rộng, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phươngvà điều kiện giảng dạy, học tập từng địa bàn.
14. Nghị định số 105/2020/NĐ-CP ngày 08/9/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển giáo dục mầm non quy định các nội dung hỗ trợ, trong đó: Chỉ hỗ trợ bữa ăn trưa cho trẻ mẫu giáo, còn trẻ từ 0-2 tuổi không có chính sách hỗ trợ bữa ăn trưa; chỉ hỗ trợ cho giáo viên “Trực tiếp dạy 02 buổi/ngày tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên” hoặc “ Trực tiếp dạy tăng cường tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo có trẻ em là người dân tộc thiểu số” ở thôn đặc biệt khó khăn, xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã đặc biệt khó khăn. Còn đối với giáo viên mầm non trực tiếp dạy 2 buổi/ngày hoặc trực tiếp tăng cường tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên tại trường chính ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn không thuộc đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã có kiến nghị, đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu với Chính phủ quan tâm sửa đổi để bổ sung chế độ chính sách cho giáo viên và trẻ mầm non, tuy nhiên đến nay vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung. Trong thời gian tới, UBND tỉnhsẽ tiếp tục đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chính phủ bổ sung các chính sách để hỗ trợ cho giáo viên và trẻ mầm non thuộc các xã, thôn đặc biệt khó khăn.
15. Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh Hà Giang ban hành 02 Nghị quyết về quy định chế độ phụ cấp, phụ cấp kiêm nhiệm đối với những người hoạt động không chuyên trách, gồm: Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 và Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND ngày 15/7/2020. Mức phụ cấp, phụ cấp kiêm nhiệm được quy định trong các Nghị quyết nêu trên của HĐND tỉnh là khá cao so với mặt bằng chung và so với mức khoán của Trung ương. Cụ thể:
So với các tỉnh giáp ranh có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, mức phụ cấp của những người không chuyên trách của tỉnh Hà Giang là một trong các tỉnh cao nhất. Khi kiêm nhiệm 2 chức danh, người hoạt động không chuyên trách sẽ được hưởng phụ cấp có hệ số 1,8; hệ số này đã gần ngang bằng với công chức xã (công chức xã có trình độ trung cấp, xếp lương bậc 1 được hệ số 1,86); so với mức khoán của Trung ương tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Hằng năm, ngân sách tỉnh phải đảm bảo thêm 82,3 tỷ đồng/năm để chi cho đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; đây là khoản kinh phí lớn địa phương phải cân đối bổ sung thêm so với mức khoán của Trung ương.
UBND tỉnh chỉ đạo Sở Nội vụ tiếp thu ý kiến của cử tri để nghiên cứu, tham mưu các nội dung về chế độ, chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách đảm bảo quy định của pháp luật.
16. Thực hiện Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg ngày 14/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ, chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành rà soát đối tượng được hưởng chế độ, chính sách và đã đề nghị Bộ Tư lệnh Quân khu 2 ban hành các Quyết định cho 56.538 đối tượng được hưởng trợ cấp một lần. Quá trình chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tại các huyện, thành phố luôn bảo đảm chặt chẽ, chính xác, kịp thời, đúng chính sách, đúng đối tượng, công khai. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai đối tượng được thụ hưởng trên địa bàn tỉnh có trường hợp không biết chữ, do đó khi xác lập hồ sơ phải nhờ người kê khai hộ dẫn đến thông tin cá nhân trong hồ sơ hưởng chế độ trợ cấp một lần bị sai lệch. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã hướng dẫn UBND các huyện thành phố trong việc hỗ trợ, xử lý hồ sơ của các đối tượng bị sai lệch về thông tin cá nhân để được hưởng hỗ trợ chính sách theo quy định của pháp luật.
17. Theo quy định tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định về cán bộ, côngchức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 14 đã hướng dẫn chi tiết, cụ thể việc giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư khi sắp xếp theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ.
Sau khi UBND tỉnh ban hành Quyết định số 32/2020/QĐ-UBND ngày 25/11/2020 quy định số lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Giang, từ đầu năm 2021 đến nay, UBND các huyện, thành phố đã và đang bốtrí sắp xếp cán bộ, công chức cấp xã dôi dư và giải quyết chế độ chính sách theo phương án: Điều chuyển, bổ sung cho các xã còn thiếu; giải quyết nghỉ thôi việc theo quy định của Luật Cán bộ, công chức; nghỉ hưu trước tuổi; nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Nghị định số 26/2015/NĐ-CP; nghỉ tinh giản biên chế theo quy định tại Nghị định 108/2014/NĐ-CP. Theo các phương án trên, cán bộ, chính sách cấp xã dôi dư đều được hưởng các khoản trợ cấp theo quy định của Trung ương nếu đủ điều kiện.Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo việc giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư sẽ tiếp tục được thực hiện theo quy định hiện hành.
|
|