quyết tâm thực hiện thắng lợi NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG KHÓA XVII, NHIỆM KỲ 2020 - 2025 

Danh sách khóa

Cử tri các Huyện,Thành phố

UBND tỉnh Hà Giang trả lời ý kiến, kiến nghị của của tri sau kỳ họp thứ Nhất Quốc hội khóa XV và sau kỳ họp thứ Hai HĐND tỉnh khóa XVIII, nhiệm kỳ 2021 – 2026
Câu hỏi Trả lời
Cử tri các huyện: Vị Xuyên, Mèo Vạc, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì kiến nghị: Đề nghị đầu tư các dự án giao thông: nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường giao thông từ trung tâm xã Linh Hồ đi xã Kim Linh huyện Vị Xuyên; nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường giao thông từ xã Tát Ngà đến trụ sở UBND xã Nậm Ban huyện Mèo Vạc; nâng cấp, sửa chữa tuyến đường liên xã Tân Quang - Tân Thành (huyện Bắc Quang) đi xã Trung Thành (huyện Vị Xuyên); nâng cấp, rải nhựa tuyến đường liên xã từ Trung tâm xã Vần Chải đi xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn; (5) xây dựng: cầu treo Tân Trịnh qua sông Bạc, cầu treo từ UBND xã Tân Thành sang 4 thôn bên sông huyện Bắc Quang; (6) đầu tư xây dựng cầu cứng thay thế cầu treo từ trung tâm xã đi thôn Lùng Thàng, xã Nam Sơn huyện Hoàng Su Phì; (7) hỗ trợ kinh phí làm đường liên xã từ thôn Hồng Quang đi xã Nậm Khòa nối với tuyến xã Nậm Khòa theo cơ chế Chương trình nông thôn mới; (8) hỗ trợ kinh phí xây dựng hạ tầng, đường giao thông để thu hút đầu tư, phát triển du lịch đối với 03 địa danh trên địa bàn xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang. Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đã được Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt tại Nghị quyết số 36/NQ-HĐND ngày 12 tháng 10 năm 2021.Trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 tỉnh tập trung nguồn vốn đầu tư cho các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, liên kết vùng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ý kiến kiến nghị của cử tri là chính đáng và cần thiết, UBND tỉnh sẽ xem xét đầu tư bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia khi được Trung ương phân bổ trong giai đoạn 2021 - 2025; đồng thời chỉ đạo UBND các huyện sử dụng ngân sách huyện thực hiện bảo trì, bảo đảm giao thông tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại của nhân dân.
Đề nghị tỉnh xem xét, hỗ trợ thêm các nội dung khác ngoài hỗ trợ xi măng để thực hiện tiêu chí số 2 về giao thông trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (hiện nay các xã chỉ được hỗ trợ xi măng) còn lại dân tự đóng góp và huy động xã hội hóa, rất khó khăn cho các xã hoàn thành tiêu chí này. Việc đề xuất hỗ trợ thêm các nội dung khác ngoài hỗ trợ xi măng để thựchiện tiêu chí số 2 về giao thông trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốcgia xây dựng nông thôn mới là chính đáng. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách của địa phương khó khăn, bên cạch đó nguồn ngân sách Trung ương bố trí hằng năm còn hạn chế so với nhu cầu của các xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, đặc biệt năm 2021 chưa được Trung ương giao vốn. Vì vậy để hoàn thiện tiêu chí số 2 về giao thông trong xây dựng nông thôn mới đề nghị các huyện quán triệt và thực hiện nghiêm chỉ đạo của tỉnh về cơ chế hỗ trợ trong thực hiện đường bê tông nông thôn theo phương thức nhà nước cùng nhân dân cùng làm. Trong đó ngân sách tỉnh chỉ cung ứng xi măng theo kế hoạch đăng ký của các địa phương đến chân công trình, không hỗ trợ kinh phí vật liệu khác và nhân lực do địa phương chủ động huy động xã hội hóa và sự đóng góp của nhân dân

UBND tỉnh Hà Giang trả lời ý kiến, kiến nghị của của tri sau kỳ họp thứ Nhất và trước kỳ họp thứ Hai HĐND tỉnh khóa XVIII nhiệm kỳ 2021-2026
Câu hỏi Trả lời
Đề nghị đầu tư các dự án giao thông: (1) nâng cấp tuyến đường từ Trung tâm xã Tả Lủng huyện Đồng Văn đi xã Sủng Trà huyện Mèo Vạc; (2) nâng cấp, sửa chữa, mở rộng tuyến đường từ đoạn ngã ba Km148+300 Quốc lộ 4C đi thôn Tà Làng; (3) đầu tư xây dựng tuyến đường từ xã Vô Điếm đi xã Bằng Hành; (4) bê tông hoá tuyến đường từ km 16 đường tỉnh lộ 177 lên xã Chiến Phố; (5) sửa chữa tuyến đường từ trung tâm huyện lên xã Bản Máy; (6) sửa chữa đoạn sạt lở trên tuyến đường Hoa Si Pan và triển khai xây dựng tuyến đường quốc phòng từ Cổng đồn Biên phòng Bản Máy xuống mốc 222, 219. Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đã được Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt tại Nghị quyết số 36/NQ-HĐND ngày 12 tháng 10 năm 2021. Trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 tỉnh tập trung nguồn vốn đầu tư cho các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, liên kết vùng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ý kiến kiến nghị của cử tri là chính đáng và cần thiết, Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ xem xét đầu tư bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia khi được Trung ương phân bổ trong giai đoạn 2021 - 2025; đồng thời, chỉ đạo UBND các huyện sử dụng ngân sách huyện thực hiện bảo trì, bảo đảm giao thông tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại của nhân dân.
UBND TỈNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC VÀ SAU KỲ HỌP THỨ 2 - HĐND TỈNH DO HĐND TỈNH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang; xã Thượng Phùng - huyện Mèo Vạc, xã Đông Minh - huyện Yên Minh kiếnb nghị:
Đề nghị UBND tỉnh bố trí kinh phí thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới theo đề án được phê duyệt và đầu tư trọng điểm cho các xã biên giới về cơ sở hạ tầng: Nhà công vụ cho giáo viên và các điểm trường; hoàn thành các tuyến đường ra các đồn, các xã biên giới đã thi công dở dang từ nhiều năm nay; mở đường đến các thôn biên giới, đường tuần tra để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội tại địa phương cũng như làm tốt công tác đối ngoại.
Chương trình nông thôn mới: Chủ trương của Tỉnh trong năm 2011 là tập trung chỉ đạo hoàn thành quy hoạch và đề án của 40 xã, trong đó có 3 xã điểm là: Vĩnh Phúc - Bắc Quang; Trung Thành - Vị Xuyên; Phương Độ - thành phố Hà Giang (đã triển khai năm 2010). Năm 2011, Tỉnh đã tập trung chỉ đạo lồng ghép các công trình đầu tư vào 3 xã điểm và 37 xã nằm trong kế hoạch 2010 - 2015; đồng thời đã phân bổ kinh phí năm 2011 cho các xã này. Đặc biệt đã triển khai hỗ trợ 11.000 tấn xi măng cho 11 huyện, thành phố để triển khai chương trình này./Cơ sở hạ tầng ở các xã biên giới được đầu tư từ các nguồn vốn như: Hỗ trợ đầu tư theo Quyết định 120; Chương trình 30a; Chương trình 134 và 135; vốn cân đối ngân sách địa phương... trong đó có nhiều nguồn vốn được phân cấp về cho các huyện quản lý, phân bổ. Hằng năm, UBND tỉnh đều chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND các huyện căn cứ các quy định về phân cấp, cần ưu tiên bố trí vốn cho các công trình trên các xã biên giới theo hướng tập trung, có trọng tâm, trọng điểm để sớm đưa công trình vào sử dụng. Tuy nhiên, do nhu cầu đầu tư của các xã biên giới rất lớn trong khi khả năng nguồn vốn có hạn nên việc đầu tư chưa được như mong muốn.
Cử tri xã Tả Ván, Thái An, Đông Hà, Bát Đại Sơn - huyện Quản Bạ; xã Yên Cường, Giáp Trung - huyện Bắc Mê kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh xem xét cấp tăng thời hạn sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế đến khi đối tượng được sử dụng thẻ thoát nghèo. Thẻ Bảo hiểm y tế cấp cho người nghèo thời hạn chỉ có một năm, sau mỗi năm phải chụp lại ảnh, làm lại thủ tục để cấp phát rất rườm rà, thậm chí còn cấp thiếu, cấp sai tên gây rất khó khăn cho người bệnh
Theo quy định hiện hành, thời hạn sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) đối với từng loại đối tượng tham gia BHYT do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định; UBND tỉnh không có thẩm quyền quy định về thời hạn sử dụng thẻ BHYT. Ngày 10/12/2010, Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Công văn số 5463/BHXH-CST về việc cấp thẻ BHYT năm 2011; theo đó, thẻ BHYT của người tham gia thuộc đối tượng hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số phát hành từ ngày 01/01/2011 trở đi, chỉ ghi thời hạn sử dụng đến ngày 31/12 của năm cấp thẻ BHYT và tạm ngừng mọi hình thức cấp thẻ BHYT có ảnh. Ngày 15/6/2011, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 3949/VPCP-KTTH thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện thí điểm cấp thẻ BHYT có ảnh ở một số địa bàn thuộc khu vực thành thị và đồng bằng.
Việc cấp thẻ BHYT thiếu hoặc sai tên trong thời gian qua, nguyên nhân chủ yếu do hiểu biết của người dân còn hạn chế, những người đại diện gia đình cung cấp thông tin không đúng...
Cử tri xã Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài - huyện Hoàng Su Phì; xã Tả Ván, Thái An, Đông Hà, Bát Đại Sơn - huyện Quản Bạ kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh sớm xem xét chi trả chế độ thu hút của y tế theo Nghị định 64/2009/NĐ-CP ngày 30/7/2009 của Chính phủ và kiến nghị với Trung ương xem xét nâng định mức chế độ trực ca đối với cán bộ y tế từ mức 10.000 đ/1ca lên mức 20.000 đ/1ca.
Về chế độ thu hút của y tế: UBND tỉnh đã giao Sở Y tế phối hợp với các huyện có liên quan giải quyết. Tính đến 31/12/2010, toàn bộ cán bộ, viên chức y tế đang công tác tại các xã 135 giai đoạn II và các xã thuộc 06 huyện nghèo trong tỉnh theo Chương trình 30a của Chính phủ đã được truy lĩnh phụ cấp ưu đãi ngành 70% và phụ cấp thu hút 70% (tính từ 15/9/2009 đến 31/12/2010) của mức tiền lương theo ngạch bậc hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Kể từ ngày 01/01/2011, các chế độ phụ cấp theo Nghị định số 64/2009/NĐ-CP của Chính phủ đều được UBND các huyện giao dự toán ngay từ đầu năm để các đơn vị chủ động thực hiện. Đến nay, không còn đơn vị nào nợ khoản phụ cấp này/ Chế độ phụ cấp thường trực 24/24 giờ đối với cán bộ tại Trạm Y tế xã và các cơ sở khám chữa bệnh (Bệnh viện, Phòng khám đa khoa khu vực), theo quy định hiện hành, còn thấp so với điều kiện kinh tế xã hội; Sở Y tế đã báo cáo Bộ Y tế xem xét trình Thủ tướng Chính phủ tăng mức phụ cấp thường trực cho cán bộ ngành Y tế. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định mới về vấn đề này.
Cử tri xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên; xã Yên Cường, xã Giáp Trung - huyện Bắc Mê kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh xem xét trình HĐND tỉnh sửa đổi Nghị quyết số 02/NQ - HĐND ngày 20/4/2010 của HĐND tỉnh: Nâng mức chế độ phụ cấp đối với chức danh bí thư chi bộ, trưởng thôn bản lên ngang bằng với mức phụ cấp các chức danh phó các ngành, đoàn thể của xã để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay.
Thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phương, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐND ngày 20/4/2010. Do ngân sách địa phương còn hạn chế, nên chưa thể điều chỉnh tăng theo kiến nghị của cử tri.
UBND TỈNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI TRƯỚC VÀ SAU KỲ HỌP THỨ 3 - HĐND TỈNH DO HĐND TỈNH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri xã Thanh Đức, Xín Chải, Quảng Ngần, Linh Hồ - huyện Vị Xuyên; xã Tân Quang, Tân Thành, Hùng An, thị trấn Vĩnh Tuy - huyện Bắc Quang; xã Tả Lủng - huyện Mèo Vạc kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh tiếp tục đầu tư vốn, hỗ trợ xi măng cho nhân dân triển khai làm đường bê tông, kiên cố hóa kênh mương và xây dựng khuôn viên gia đình, các công trình vệ sinh để đạt được tiêu chí về xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là chương trình lớn, liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh và được thực hiện trong thời gian dài. Hiện nay chương trình đang trong giai đoạn thành lập bộ máy quản lý, công tác tuyên truyền và qui hoạch, xây dựng đề án cho các xã chỉ đạo điểm của tỉnh, của huyện. Vừa qua Trung ương đã hỗ trợ cho tỉnh 11.000 tấn xi măng, tỉnh đã phân bổ cho mỗi huyện, thành phố 1000 tấn để các huyện. Căn cứ vào điều kiện cụ thể các đơn vị phân bổ cho các xã trên địa bàn thực hiện các nội dung làm đường bê tông, làm kênh mương, các công trình vệ sinh và chỉnh trang khuôn viên hộ gia đình. Trong thời gian tới, khi có ngân sách tỉnh sẽ tiếp tục ưu tiên cho đầu tư xây dựng nông thôn mới. . 
Cử tri các xã:Đức Xuân - huyện Bắc Quang, Bạch Ngọc - huyện Vị Xuyên, Đường Âm - huyện Bác Mê, Đông Hà - huyện Quản Bạ kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh bố trí vốn xây dựng cơ bản để đầu tư xây dựng trạm y tế xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang ra khỏi khuôn viên trụ sở hiện nay. Xây nhà lưu trú, nhà công vụ cho cán bộ phòng khám đa khoa khu vực Bạch Ngọc, huyện Vị Xuyên; phòng khám đa khoa khu vực Đông Hà, huyện Quản Bạ; xây dựng cơ sở và trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh cho phòng khám đa khoa khu vực Đường Âm, huyện Bắc Mê.
Trạm y tế xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang: Đã được đầu tư xây dựng năm 2002-2003, quy mô nhà cấp II, 2 tầng bằng nguồn vốn Chương trình 135. Nếu do yêu cầu bức thiết cần di chuyển trạm y tế ra khỏi khuôn viên trụ sở UBND xã hiện nay thì đề nghị UBND huyện Bắc Quang báo cáo cụ thể UBND tỉnh xem xét cho chủ trương đầu tư và lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật trình UBND tỉnh phê duyệt và xem xét bố trí kinh phí để thực hiện.
 Về xây dựng nhà lưu trú, nhà công vụ cho cán bộ phòng khám đa khoa khu vực Bạch Ngọc - huyện Vị Xuyên, Phòng khám đa khoa khu vực Đông Hà - huyện Quản Bạ: Hiện nay, hệ thống nhà ở công vụ cho cán bộ y tế của tỉnh chưa có nguồn vốn để đầu tư xây dựng, UBND tỉnh đã đăng ký danh mục với Trung ương xin được đầu tư bằng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, nhưng đến nay vẫn chưa được phê duyệt. Khi có nguồn vốn, UBND tỉnh sẽ đầu tư xây dựng hệ thống nhà ở công vụ cho cán bộ y tế của tỉnh như đề nghị của cử tri.
 Về xây dựng cơ sở và trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh cho Phòng khám đa khoa khu vực Đường Âm - huyện Bắc Mê: Phòng khám này đã được đầu tư xây dựng từ năm 2000, nhà cấp II, 2 tầng, nguồn vốn chương trình 135. Năm 2010, Phòng khám đa khoa khu vực Đường Âm (huyện Bắc Mê) đã  được UBND tỉnh phê duyệt Báo cáo kinh tế kỹ thuật đầu tư bổ sung cả nhà làm việc, khám chữa bệnh, thiết bị y tế (Sở Y tế làm chủ đầu tư). UBND tỉnh đã đăng ký dự án này vào danh mục đầu tư bằng Vốn trái phiếu Chính Phủ nhưng chưa được phê duyệt. Khi được phê duyệt vào danh mục đầu tư bằng vốn Vốn trái phiếu Chính Phủ, UBND tỉnh sẽ bố trí vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh cho Phòng khám đa khoa khu vực Đường Âm - huyện Bắc Mê theo ý kiến đề nghị của cử tri.
 
Cử tri Cốc Rế - huyện Xín Mần; Lũng Táo, Sảng Tủng - huyện Đồng Văn; Bát Đại Sơn - huyện Quản Bạ; huyện Bắc Mê kiến nghị:
Nhóm ý kiến đề nghị tỉnh tiếp tục đầu tư xây dựng nhà học 2 tầng, các điểm trường Tiểu học, Mầm non, nhà lưu trú cho giáo viên ở các thôn bản .
 
Những năm qua, nhà lớp học và nhà lưu trú cho giáo viên của các trường học và điểm trường thuộc đối tượng đầu tư của Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008 - 2012. Tuy nhiên, theo chỉ đạo của Trung ương, Đề án này kết thúc sớm vào năm 2011 để chuẩn bị cho triển khai giai đoạn tiếp theo. Hiện nay UBND tỉnh đã đăng ký với Bộ Giáo dục và Đào tạo danh mục công trình đầu tư thuộc Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên cho giai đoạn tiếp theo của toàn tỉnh. Khi được Chính phủ phê duyệt Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn tiếp theo, UBND tỉnh sẽ bố trí đầu tư xây dựng nhà lớp học và nhà lưu trú cho giáo viên của các trường học và điểm trường thôn bản chưa được xây dựng .
Cử tri 02 huyện Bắc Quang và Vị Xuyên kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo UBND huyện Bắc Quang (Chủ đầu tư dự án giao thông đường Trung Thành - Vị Xuyên đi Đồng tâm - Bắc Quang) phối hợp với UBND huyện Vị Xuyên giải quyết dứt điểm việc đền bù đất đai, hoa màu cho 97 hộ dân (các thôn Minh Thành, Cốc Héc, thôn Tấng, thôn Cuôm - Trung Thành) do thi công đường Trung Thành (huyện Vị Xuyên) đi Đồng Tâm (huyện Bắc Quang) làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. (Từ năm 2002 nhân dân đã kiến nghị nhiều lần, nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết được, gây bức xúc cho nhân dân)
UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Bắc Quang và UBND huyện Vị Xuyên tiếp thu ý kiến cuả cử tri và lập hồ sơ đền bù cho nhân dân. Đề nghị các huyện chủ động bố trí ngân sách theo Luật Ngân sách và các văn bản hướng dẫn hiện hành để bồi thường cho nhân dân theo qui định
Cử tri xã Bát Đại Sơn, xã Cán Tỷ - huyện Quản Bạ; xã Tả Lủng, xã Sủng Trà - huyện Mèo Vạc kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh hàng năm thông báo chỉ tiêu tuyển sinh cử tuyển cho các huyện, các xã sớm để học sinh có đủ thời gian làm hồ sơ, thủ tục xét duyệt đi học cử tuyển và tăng thêm chỉ tiêu học sinh đi học cử tuyển của các trường đại học cho huyện Mèo Vạc
Hằng năm, ngay khi nhận được văn bản giao chỉ tiêu cử tuyển của Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh kịp thời phân bổ cho các huyện trong tỉnh và giao cho Sở GD&ĐT tiến hành triển khai thực hiện các công việc theo quy trình tuyển sinh. Vì vậy, thời gian thông báo chỉ tiêu cử tuyển phụ thuộc vào thời gian giao chỉ tiêu cử tuyển của Bộ GD&ĐT.
Trên cơ sở đăng kí tuyển sinh cử tuyển của các huyện, ngày 01/10/2009, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3800/QĐ-UBND phê duyệt 500 chỉ tiêu đào tạo nguồn nhân lực theo hình thức cử tuyển giai đoạn 2010 – 2015, được duyệt theo từng năm. Hàng năm, chỉ tiêu tuyển sinh luôn được phân bổ cho các huyện vùng cao. Hiện tại, Tỉnh đã và đang triển khai thực hiện tuyển sinh theo chỉ tiêu hàng năm.
Cử tri xã Sủng Trái, Sảng Tủng - huyện Đồng Văn; xã Cốc Rế, Tả Nhìu - huyện Xín Mần kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng quan tâm đến công tác khám chữa bệnh cho nhân dân tại các xã trong huyện. Hiện nay bác sỹ đến trạm chưa thường xuyên; kiểm tra rà soát lại việc cấp thẻ bảo hiểm còn nhiều sai sót, trùng lặp (tại xã Sủng Trái thiếu 1.515 thẻ BHYT; xã Sảng Tủng và thôn Múng Tủng, xã Sủng trái - huyện Đồng Văn chưa được cấp thẻ BHYT).
Thực tế tại thời điểm hiện nay, ngành y tế Hà Giang đang bị thiếu hụt lực lượng Bác sĩ tại tất cả các đơn vị y tế trong toàn tỉnh, do vậy tại trạm y tế xã cũng chưa đảm bảo được yêu cầu thường xuyên có bác sĩ khám và điều trị. Để giải quyết được vấn đề này, Sở y tế đã tham mưu cho UBND tỉnh triển khai đề án Đào tạo bác sĩ theo địa chỉ, đây là giải pháp lâu dài nhằm đảm bảo đủ bác sĩ công tác tại trạm y tế xã. Bên cạnh đó tiếp tục thực hiện đề án 1816 luân phiên bác sĩ về công tác tại trạm 1-2 ngày/ tuần.
Ý kiến về việc cấp thẻ BHYT còn nhiều sai sót, nhầm thẻ, thiếu thẻ. Căn cứ đề nghị của cử tri, yêu cầu UBND huyện Đồng Văn đã chỉ đạo 2 xã Sảng Tủng, Sủng Trái khẩn trương tiến hành rà soát lập danh sách chính xác số thẻ bị sai và đề nghị UBND huyện cấp lại để cấp phát kịp thời cho người dân.  
 
Cử tri các xã Tiên Yên, Hương Sơn, Yên Hà - H. Quang Bình; Thàng Tín - H. Hoàng Su Phì; Kim Thạch - H. Vị Xuyên kiến nghị:
Chỉ đạo Điện lực các huyện tuyên giải thích rõ cho nhân dân biết về giá điện, hình thức thu tiền điện; kiểm tra, giải quyết việc một số hộ dân xã Kim Thạch - huyện Vị Xuyên không còn nhu cầu tiếp tục sử dụng điện thoại do EVN cấp, lắp đặt từ năm 2006 để thanh lý hợp đồng cho nhân dân. Vì nhân dân đã mang đến chi nhánh điện thành phố Hà Giang trả lại nhưng không được chấp thuận, nên người dân vẫn phải trả tiền thuê bao 22.000 đồng/tháng.
Sau khi tìm hiểu kỹ nội dung về lĩnh vực viễn thông như công văn đã đề cập, Công ty Điện lực Hà Giang kiểm tra, xác minh cụ thể và đến ngày 20/09/2011 Điện lực thành phố đã thực hiện thanh lý hợp đồng cho khách hàng nói trên. Các khách hàng khác tại xã Kim Thạch nếu có nhu cầu, đến cửa hàng viễn thông đều đã được điện lực thành phố thực hiện thanh lý theo quy định.
 
Trường hợp cử tri xã Thàng Tín huyện Hoàng Su Phì. Trường hợp này điện lực Hoàng Su Phì không thực hiện thanh lý hợp đồng cho thuê bao Cáo Văn Sinh số điện thoại là 02192243581 với lý do khách hàng này còn nợ cước nhiều tháng không chịu thanh toán cho điện lực nên không thể thực hiện thanh lý hợp đồng, tuy nhiên hiện nay điện lực đã thực hiện tạm ngưng số thuê bao này để không tiếp tục phát sinh cước.
 
 Trường hợp của một số cử tri xã Tiên Yên, Hương Sơn, Yên Hà huyện Quang Bình, sau khi được đại lý thu cước giải thích các thuê bao này đã để cửa hàng viễn thông làm thủ tục và đã được của hàng viễn thông điện lực Quang Bình thanh lý.
(cử tri các xã Bản Díu, xã Pà Vầy Sủ, huyện Xín Mần; xã Bát Đại Sơn, Lùng Tám- huyện Quản Bạ; xã Yên Hà - huyện Quang Bình; thị trấn Vĩnh Tuy, xã Tân Quang, Tân Thành, xã Hùng An, Liên Hiệp, Hữu Sản, Bằng Hành, Đức Xuân - huyện Bắc Quang; xã Linh Hồ, xã Quảng Ngần, xã Việt Lâm- huyện Vị Xuyên kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Công ty Điện lực tỉnh xây dựng trạm hạ thế tại thôn Tân Thành 1, Tân Thành 3, Thôn Muộng, thôn Nà Ôm - xã Liên Hiệp; Thôn Đoàn Kết - xã Hữu Sản, huyện Bắc Quang; các thôn Xuân Hà, Yên Sơn, Xuân Phú, Tràng Mới - xã Yên Hà, huyện Quang Bình. Đầu tư kéo điện cho các thôn: thôn Mỏ Nhà Cao, Lùng Tám Cao, Lùng Hóa - xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ; thôn Trung Sơn, Thượng Nguồn, Khuổi Luồn, Chiến Thắng, Quyết thắng - xã Hữu Sản; thôn Chang, thôn Đoàn Kết, thôn Lái, thôn Thượng, thôn Kim Tiến - xã Bằng Hành; thôn Xuân Mới - xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang.
Do nguồn vốn có hạn nên đến nay công ty Điện lực Hà Giang mới đầu tư được đường dây 35kV và trạm biến áp, còn đường dây 0,4kV sau trạm biến áp do ngân sách địa phương và nhân dân tự đầu tư. Qua khảo sát cho thấy: do đặc thù địa hình chia cắt phức tạp nên phải có hệ thống đường dây tương đối dài để nối tiếp vào đường dây 0,4 kV hiện có nên phải có nguồn kinh phí rất lớn mới đầu tư được. Việc đầu tư như vậy cũng sẽ không đảm bảo chất lượng cho các hộ dân sử dụng điện, không an toàn cho hệ thống điện nên ngành điện chưa thể đáp ứng ngay được. Trong thời gian tới sẽ tập trung nguồn vốn từ các dự án và xã hội hoá để đầu tư xây dựng lưới điện hạ áp đến các thôn bản, cụm dân cư chưa có điện phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành điện, an toàn cho nhân dân.
UBND TỈNH TRẢ LỜI Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ 9 ĐẾN SAU KỲ HỌP THỨ 10 - HĐND TỈNH DO HĐND TỈNH CHUYỂN ĐẾN
Câu hỏi Trả lời
Cử tri các xã: Nghĩa Thuận, huyện Quản Bạ; thị trấn Yên Phú, huyện Bắc Mê; Bằng Hành, Vĩnh Phúc, huyện Bắc Quang kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh đầu tư nâng cấp các tuyến đường từ UBND xã Nghĩa Thuận đi các thôn: Ma Sào Phố, Tả Súng Chư, Na Lình, xã Nghĩa Thuận, huyện Quản Bạ; mở mới đường dọc bờ Nam sông Gâm (từ cầu treo huyện mới đến thôn Bó Củng), thị trấn Yên Phú, huyện Bắc Mê; đầu tư xây dựng hoàn thành các tuyến đường liên xã: Từ xã Bằng Hành đi xã Vô Điếm, xã Vĩnh Phúc đi xã Vĩ Thượng, xã Vĩnh Phúc đi xã Hương Sơn, huyện Bắc Quang
- Về tuyến đường từ xã Nghĩa Thuận đến thôn Ma Sào Phố huyện Quản Bạ hiện nay đã đầu tư xong giai đoạn I theo quy mô tiêu chuẩn đường loại A – GTNT nền đường rộng 5m+0,8m rãnh dọc, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống công trình thoát nước. Hạng mục mặt đường và an toàn giao thông chưa thực hiện được do khó khăn về vốn đầu tư, năm 2014 công trình không được bố trí vốn để tiếp tục thi công do vậy huyện đang lập báo cáo trình UBND tỉnh bố trí nguồn vốn 193, bố tri dân cư biên giới và nguồn vốn nông thôn mới để tiếp tục thi công xây dựng.

- Về tuyến đường từ xã Nghĩa Thuận đi thôn Tả Súng Chư và thôn Nà Lình: 02 tuyến đường trên là đường liên thôn phục vụ cho phát triển KT-XH của khu vực, hiện nay đi lại rất khó khăn nhất là vào mùa mưa. Do khó khăn về vốn nên từ nay đến năm 2015 chưa thể bố trí vốn để đầu tư xây dựng được. Với chức năng quản lý trên địa bàn, yêu cầu UBND huyện Quản Bạ quan tâm bố trí ngân sách huyện để duy tu bảo dưỡng, sửa chữa đồng thời lồng ghép với chương trình xây dựng nông thôn mới để xây dựng những đoạn cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu đi lại của nhân dân phục vụ phát triển KT-XH.

- Về đề nghị cho mở mới tuyến đường dọc bờ nam sông Gâm, theo quy định về phân cấp quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh, UBND huyện Bắc Mê căn cứ vào nhu cầu thực tế, Quy hoạch phát triển KTXH của huyện và khả năng cân đối nguồn vốn để bố trí đầu tư xây dựng công trình trên hoặc báo cáo UBND tỉnh xem xét đầu tư xây dựng.

- Đối với đề nghị đầu tư xây dựng hoàn thành đường từ xã Bằng Hành đến xã Vô Điếm; xã Vĩnh Phúc đi Vĩ Thượng; xã Vĩnh Phúc đi xã Hương Sơn: Các tuyến đường trên nằm trong quy hoạch phát triển GTVT từ nay đến năm 2020 định hướng đến năm 2030 tuy nhiên do thực hiện NQ11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ nên từ nay đến năm 2015 chưa thể bố trí vốn để đầu tư xây dựng được. Với chức năng quản lý trên địa bàn, yêu cầu UBND huyện Bắc Quang bố trí ngân sách địa phương để duy tu bảo dưỡng, sửa chữa đồng thời lồng ghép với chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh để xây dựng những đoạn cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu đi lại của nhân dân phục vụ phát triển KT-XH trên địa bàn.
Cử tri các xã: Yên Cường, huyện Bắc Mê; Bằng Hành, huyện Bắc Quang; Nậm Ty, huyện Hoàng Su Phì; Pà Vầy Sủ, huyện Xín Mần kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh đầu tư xây dựng cầu treo qua suối Bản Nghè, xã Yên Cường, huyện Bắc Mê; cầu treo qua suối Hít, pác Hít thuộc thôn Thác, xã Bằng Hành, huyện Bắc Quang; làm cầu cứng qua suối (đoạn đường từ thôn Tân Thượng đến trụ sở UBND xã Nậm Ty), huyện Hoàng Su Phì; cầu treo qua Sông Chảy từ xã Pà Vầy Sủ sang huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
- Ngày 13/6/2014, UBND tỉnh đã có Văn bản số 1747/UBND-CNGTXD chỉ đạo như sau: Trong điều kiện cho phép, UBND các huyện, thành phố chủ động sử dụng các nguồn ngân sách được phân cấp và vận dụng lồng ghép vào các Chương trình mục tiêu để ưu tiên xây dựng những cầu đã bị hỏng nặng không còn khả năng khôi phục. Đồng thời lập báo cáo, đề xuất UBND tỉnh nhu cầu cấp bách xây dựng cầu treo cần thiết trên địa bàn huyện, thành phố quản lý kèm theo dự kiến kinh phí.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 153 cầu treo, trong đó: 152 cầu treo các loại do UBND các huyện/thành phố quản lý và 01 cầu treo Cốc Pài do Sở Giao thông Vận tải quản lý. Trong tổng số 153 cầu treo có 31 cầu tốt, 73 cầu trung bình, cầu yếu 37 cầu, không sử dụng được 12 cầu. Tại Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 12/3/2014, của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng cầu nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020, Tỉnh Hà Giang được xây dựng 15 cầu tại địa bàn huyện Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Bắc Mê, Hoàng Su Phì, Xín Mần và Thành phố Hà Giang; tại Quyết định số 1906/QĐ-BGTVT ngày 20/5/2014 Bộ Giao thông Vận tải về việc xây dựng cầu treo dân sinh đảm bảo an toàn giao thông, tỉnh Hà Giang được xây dựng 08 cầu. Như vậy việc đầu tư xây dựng các cầu treo trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới đã được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải phê duyệt đề án đầu tư và UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo các ngành, UBND các huyện triển khai thực hiện.

- Ý kiến cử tri xã Nậm Ty huyện Hoàng Su Phì đề nghị làm cầu cứng qua suối, đây là công trình có quy mô nhỏ suất vốn đầu tư không lớn, qua nghiên cứu nhận thấy việc đầu tư xây dựng là cần thiết để phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Theo phân cấp quản lý, yêu cầu UBND huyện Hoàng Su Phì báo cáo chi tiết về sự cần thiết phải đầu tư, trình UBND Tỉnh cho chủ trương bổ sung vào quy hoạch. 
Cử tri các xã: Đồng Tâm, Đồng Tiến, huyện Bắc Quang; Niêm Tòng, huyện Mèo Vạc kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh ưu tiên nguồn vốn đầu tư nâng cấp, rải nhựa 02 tuyến đường: Tuyến từ xã Đồng Tâm đi xã Đồng Tiến, huyện Bắc Quang và tuyến từ xã Niêm Tòng đi xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, phát triển kinh tế và thu hút du lịch
- Về việc đầu tư xây dựng tuyến đường từ xã Đồng Tâm đi xã Đông tiến huyện Bắc Quang. Hiện trạng là đường loại A-GTNT mặt đường cấp phối và đất đã xuống cấp đi lại rất khó khăn nhất là vào mùa mưa do vậy việc đầu tư xây dựng là hết sức cần thiết. Tuyến đường đã được quy hoạch giai đoạn 2011 – 2015 và UBND Tỉnh giao cho UBND huyện Bắc Quang làm chủ đầu tư để thực hiện đầu tư xây dựng. Hiện tại công tác chuẩn bị đã hoàn thành, do khó khăn về vốn đầu tư nên từ nay đến năm 2015 chưa thể đầu tư xây dựng được. Với chức năng quản lý, yêu cầu huyện Bắc Quang quan tâm bố trí ngân sách địa phương để duy tu bảo dưỡng, sửa chữa tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu đi lại của nhân dân.

- Tuyến đường Niêm Tòng – Khâu Vai huyện Mèo Vạc đã được đầu tư xong giai đoạn I với quy mô đường loại A-GTNT gồm xây dựng nền đường rộng 5m+0,8m rãnh dọc, công trình thoát nước và công trình phòng hộ, đưa vào khai thác sử dụng từ quý II/2011. Hiện nay do khó khăn về vốn nên chưa tiếp tục triển khai giai đoạn II của dự án (xây dựng mặt đường). UBND tỉnh sẽ quan tâm đầu tư sau năm 2015.
Cử tri xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ; Việt Lâm, huyện Vị Xuyên kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh bố trí vốn để sửa chữa các nhà trạm y tế xã, được xây dựng từ lâu, nay xuống cấp nghiêm trọng; chỉ đạo Sở Y tế trang bị các trang thiết bị y tế phục vụ khám chữa bệnh tại các trạm y tế xã như: máy siêu âm, điện tim; đầu tư nâng cấp trang thiết bị cho Bệnh viện điều dưỡng và Phục hồi chức năng, để nâng cao chất lượng, khám và chữa bệnh cho nhân dân;
- Về bố trí vốn để sửa chữa các nhà trạm y tế, trang bị các trang thiết bị y tế phục vụ khám chữa bệnh tại các trạm y tế xã, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch số 64/KH-UBND, ngày 25/5/2012 của UBND tỉnh về kế hoạch thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về Y tế xã giai đoạn 2011-2020 tỉnh Hà Giang. Trong kế hoạch thực hiện đã xây dựng cụ thể nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng như nhà trạm y tế, công trình phụ trợ... và các loại trang thiết bị y tế phù hợp theo quy định của Bộ Y tế. Việc tổ chức triển khai tại các xã sẽ được thực hiện theo lộ trình của từng giai đoạn 2011-2020, trong đó căn cứ vào danh sách đăng ký thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về Y tế xã hàng năm của từng huyện để phối hợp triển khai thực hiện.

- Thực trạng bệnh viện Điều dưỡng phục hồi chức năng do mới thành lập, cơ sở vật chất không đồng bộ, trang thiết bị chưa đầy đủ. Hàng năm UBND tỉnh đã bố trí ngân sách để bệnh viện điều dưỡng phục hồi chức năng đầu tư nâng cấp, sủa chữa cơ sở vật chất và mua sắm một số trang thiết bị phục vụ công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện như là sửa chữa hệ thống đường ống nước, nhà cầu đi lại giữa các khoa phòng bệnh viện. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân tại bệnh viện điều dưỡng-PHCN, Sở Y tế đang xây dựng Dự án “Đầu tư xây dựng công trình bệnh viện Điều dưỡng - phục hồi chức năng tỉnh Hà Giang”, nguồn vốn ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương với tổng số vốn dự kiến 178 tỷ đồng, trong đó kinh phí dành cho mua sắm, nâng cấp trang thiết bị là 50 tỷ đồng. Dự kiến đăng ký nhu cầu vốn ngân sách trung ương hỗ trợ giai đoạn 2016-2018.
Cử tri xã Tả Lủng, huyện Đồng Văn, xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên kiến nghị:
Đề nghị đầu tư xây dựng trạm thu, phát sóng điện thoại di động cho 04 thôn: Súng Lủng, Hà Chúa Lả, Đề Đay, xã Tả Lủng; thôn Lũng Pù, xã Thuận Hòa để đảm bảo thông tin liên lạc cho nhân dân
Tại 03 thôn thuộc xã Tả Lủng, huyện Đồng Văn: địa hình các thôn này ở khu vực có nhiều núi cao, che chắn và khoảng cách giữa các thôn lớn. Chi nhánh Viettel Hà Giang dự kiến sử dụng giải pháp repeater (khuếch đại, tăng tín hiệu sóng điện thoại) để đảm bảo vùng phủ sóng cho cả 03 thôn trên. Dự kiến triển khai trong đầu quý III/2014. Viễn thông Hà Giang đang khảo sát và lập kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, BTS trong năm 2015.

Tại thôn Lũng Pù, xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên: Chi nhánh Viettel Hà Giang đã xây dựng xong phần móng nhà trạm HGG387 để lắp đặt thiết bị và dự kiến phát sóng trong tháng 6/2014.
Cử tri xã Bằng Hành, Vĩnh Phúc, huyện Bắc Quang; xã Tả Nhìu, huyện Xín Mần kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh tiếp tục quan tâm hỗ trợ xi măng để nhân dân 2 xã Vĩnh Phúc, Bằng Hành xây dựng đường giao thông liên thôn; đầu tư xây dựng chợ trung tâm xã Bằng Hành và xã Vĩnh Phúc theo quy hoạch đã được phê duyệt; đề nghị tỉnh xem xét hỗ trợ xi măng cho hộ cận nghèo làm các hạng mục: Đường vào hộ gia đình, bể nước, nhà vệ sinh, nhà tắm, láng bó nền, chuồng chăn nuôi gia súc trong Chương trình xây dựng nông thôn mới
Ngày 31/3/2014, UBND tỉnh đã ban hành quyết định số 623/QĐ-UBND về việc phân bổ vốn thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2014. Trong đó các xã được trực tiếp phân bổ vốn đầu tư phát triển thực hiện các nội dung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong thực hiện xây dựng nông thôn mới (trong đó, xã Vĩnh Phúc 1.100 triệu; xã Bằng Hành 370 triệu; Xã Tả nhìu 2.500 triệu). Đề nghị UBND các huyện chỉ đạo các xã chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư các công trình theo thứ tự ưu tiên bằng phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân. 
Cử tri xã Vĩnh Phúc, huyện Bắc Quang; xã Pải Lủng, huyện Mèo Vạc; xã Pà Vầy Sủ, huyện Xín Mần kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh xem xét, trình HĐND tỉnh sửa đổi Nghị quyết số 47/2012 của HĐND tỉnh về các nội dung hỗ trợ phát triển chăn nuôi, cụ thể: Nâng mức tiền vay được hỗ trợ lãi xuất cho hộ nghèo chăn nuôi; giảm qui mô đàn đại gia súc (chăn nuôi theo hướng trang trại) để được hỗ trợ và kéo dài thời hạn cho vay, phù hợp với điều kiện thực tế tại Hà Giang.
UBND tỉnh đã giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành và UBND các huyện, thành phố sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 47/2012/NQ-HĐND. Hiện tại đang khẩn trương hoàn thiện và dự kiến sẽ trình kỳ họp thứ 12 HĐND tỉnh.
Cử tri các huyện trong tỉnh kiến nghị:
Đề nghị tỉnh có chính sách, để các trường Mần non thực hiện hợp đồng cấp dưỡng phục vụ bữa ăn trưa cho trẻ em
Thông tư Liên tịch số 71/2007/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2007 của Bộ GD&ĐT – Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập có quy định “Với địa bàn không có cơ sở dịch vụ cung ứng cho việc nấu ăn cho trẻ thì được thuê khoán người nấu ăn 01 người phục vụ 50 trẻ mẫu giáo hoặc 35 trẻ nhà trẻ”. Thông tư không đề cập đến chế độ chính sách của các cô nuôi làm việc ở các cơ sở giáo dục mầm non.

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh các huyện đang áp dụng một số hình thức sau: bố trí nhân viên hành chính xuống nấu ăn; UBND huyện hỗ trợ kinh phí cô nuôi; trường tự cân đối kinh phí thuê cô nuôi; phụ huynh đóng góp kinh phí thuê cô nuôi; phụ huynh tự nấu ăn cho học sinh; giáo viên tham gia nấu ăn cho học sinh. Để thống nhất, UBND tỉnh sẽ xem xét, nghiên cứu chính sách hỗ trợ cho người hợp đồng cấp dưỡng phục vụ bữa ăn trưa cho trẻ em ở các cơ sở giáo dục mầm non trong thời gian tới.
Cử tri các huyện kiến nghị:
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện việc cấp phát Gạo cho học sinh theo quyết định 36/QĐ-TTg của Chính phủ và công văn số 4090/UBND-VX ngày 19/12/2013 của UBND tỉnh Hà Giang ngay từ đầu năm học để đảm bảo sinh hoạt cho học sinh; thực hiện cấp phát mỗi đợt (từ 1 - 2 tháng ăn) để các trường dễ bảo quản, tránh ẩm mốc; đề nghị UBND tỉnh kiến nghị với Trung ương hỗ trợ trực tiếp bằng tiền thay vì hỗ trợ bằng Gạo để các đơn vị trường học chủ động cân đối lượng gạo sử dụng hàng tháng cho học sinh
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 36/2013/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ gạo cho học sinh tại các trường ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ngày 30 tháng 7 năm 2013, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có công văn số 2261/UBND-VX, đề nghị Bộ Tài chính và Tổng cục dự trữ Nhà nước cấp gạo hỗ trợ cho học sinh năm học 2013-2014 thành 4 đợt, mỗi học kỳ chia thành 2 đợt như sau: Học kỳ I: Tiếp nhận theo 2 đợt vào đầu tháng 8 và tháng 10 năm 2013; Học kỳ II: Tiếp nhận theo 2 đợt vào đầu tháng 01 và tháng 3 năm 2014.

Tuy nhiên đến ngày 06 tháng 12 năm 2013 Tổng cục dự trữ Nhà nước thuộc Bộ Tài chính mới có Quyết định số 775/QĐ-TCDT về việc xuất gạo dự trữ Quốc gia hỗ trợ học sinh 5 tháng liền. Việc đề nghị hỗ trợ bằng tiền thay vì hỗ trợ bằng gạo, UBND tỉnh sẽ xem xét đề nghị Trung ương quyết định.
UBND tỉnh Hà Giang trả lời ý kiến, kiến nghị của của tri sau kỳ họp thứ Nhất, HĐND tỉnh khoá XVIII
Câu hỏi Trả lời
Đề nghị UBND tỉnh tiếp tục quan tâm hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng: Kéo điện lưới, phủ sóng di động; làm đường bê tông liên thôn tại các thôn của các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
 
Về đầu tư kéo điện lưới: Tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn toàn tỉnh có 192.701 hộ dân, trong đó có 177.839 hộ đã được sử dụng điện từ lưới quốc gia với tỷ lệ đạt 92,29% và có 6.298 hộ được sử dụng điện từ các nguồn khác như: thủy điện mini, năng lượng mặt trời (chiếm tỷ lệ 3,27%); số còn lại 8.564 hộ dân chưa được sử dụng điện, chiếm 4,44%.

Tỷ lệ số hộ được sử dụng điện từ các nguồn (điện lưới quốc gia, thủy điện mini, năng lượng mặt trời) đến hết tháng 6 năm 2021 là 184.137 hộ đạt 95,56%. Tổng số thôn trên địa bàn tỉnh là 2.067 thôn, trong đó có 1.596 thôn đạt tỷ lệ từ 95% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 324 thôn đạt tỷ lệ từ 50% - 94% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia và còn 105 thôn chưa có điện lưới quốc gia để sử dụng.

Giải pháp triển khai thực hiện cấp điện: Đối với các thôn bản đã có quy mô, khối lượng và giá trị đầu tư xây dựng cho các thôn chưa được đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh đã được UBND tỉnh Phê duyệt tại Dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách trung ương, theo chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 16 tháng 7 năm 2021, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 19/NQ-HĐND thông qua Phương án dự kiến Kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn vốn Ngân sách Trung ương giai đoạn 2021-2025 tỉnh Hà Giang để đầu tư Dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách trung ương.

Mặt khác, hiện nay Dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách trung ương đã được Bộ Công Thương tổng họp, trình Chính phủ Quyết định chủ trương đầu tư chương trình đầu tư công giai đoạn 2021-2025. Đồng thời UBND tỉnh chỉ đạo UBND các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh hàng năm cân đối các nguồn vốn từ ngân sách huyện, các chương trình mục tiêu, nông thôn mới,... để ưu tiên đầu tư xây dựng công trình cấp điện, nâng cấp sửa chữa các tuyến đường điện do nhân dân tự đầu tư, để đảm bảo cấp điện được an toàn, ổn định, chất lượng.

Về đầu tư phủ sóng di động:

Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo, giao Sở Thông tin và Truyền thông tiến hành rà soát, tối ưu mạng lưới, vùng phũ sóng điện thoại, internet; đồng thời tham mưu xây dựng phương án phát triển hạ tầng viễn thông giai đoạn 2021 - 2025. Để đảm bảo sự vào cuộc của các cơ quan, doanh nghiệp trong việc phát triển hạ tầng viễn thông, thực hiện mục tiêu đến năm 2025, 100% các thôn/bản được phủ sóng di động và internet. Ngày 17 tháng 8 năm 2021, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày về việc Phát triển hạ tầng viễn thông phục vụ chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021 - 2025. Theo đó, tập trung triển khai từ năm 2021 đến 2025 sẽ phát triển mới 601 cột ăng ten thu phát sóng thông tin di động trên địa bàn toàn tỉnh; triển khai truy nhập viễn thông băng rộng đến 931 các khu vực thôn/xóm/bản trên địa bàn tỉnh, đảm bảo nhu cầu phát triển thuê bao, cung cấp dịch vụ internet băng rộng tới mọi người dân trên địa bàn tỉnh, phục vụ phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao dân trí.

Về làm đường bê tông liên thôn:

Hàng năm UBND tỉnh đã chỉ đạo giao Sở Giao thông vận tải và Văn phòng điều phối nông thôn mới, phối họp với ƯBND các huyện, thành phố và các Sở, ban ngành, đơn vị thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng quyền hạn của ngành, tham mưu cho ƯBND tỉnh biên soạn các tài liệu hướng dẫn chuyên ngành triển khai các chương trình phát triển đường GTNT. Nhờ đó, các cấp uỷ Đảng, Chính quyền đã quan tâm chỉ đạo, đặc biệt là vai trò chỉ đạo cụ thể của các xã, thôn bản đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng đường GTNT. Kết quả: 6 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ đường trục thôn được cứng hóa đạt chuẩn NTM là 41%/43,5% (so với chỉ tiêu được giao); tỷ lệ thôn biên giới có đường giao thông đạt tiêu chí NTM là 37, l%/44% (so với chỉ tiêu được giao);

Trong giai đoạn 2021-2025 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030. UBND tỉnh chỉ đạo UBND các huyện, thành phố tập chung hỗ trợ đầu tư và tiếp tục đầu tư cùng với các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bên vững và xây dựng nông thôn mới làm đường bê tông liên thôn tại các thôn của các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hình thức Nhà nước và Nhân dân cùng làm, nhà nước chủ yếu hỗ trợ xi măng để từng bước hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn, đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân.
Đề nghị UBND tỉnh xem xét xóa bỏ công tơ tổng để bót khó khăn cho nhân dân trong quá trình sử dụng điện chiếu sáng. Vì hiện nay tại một số trung tâm các xã có sự gia tăng về dân số, dẫn đến tình trạng điện yếu không đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt, đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư thêm trạm hạ thế, để người dân các xã đảm bảo điện cho sinh hoạt và sản xuất. Thực hiện bàn giao cho ngành Điện quản lý và khai thác sử dụng các trạm hạ thế để tránh việc đùn đẩy trong việc bảo dưỡng, sửa chữa khi các trạm biến áp bị hư hỏng. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Giang có 153.611 công tơ bán lẻ trực tiếp cho nhân dân; công tơ dùng chung có 2.881 công tơ và Tổng số hộ dùng chung công tơ có 25.433 hộ. Trong đó có 201 công tơ dùng chung thuộc BQL dự án ĐTXD công trình các huyện và BQL dự án ĐTXD công trình Dân dụng và Công nghiệp và các cơ quan đơn vị chưa bàn giao tài sản sang cho ngành điện quản lý, những đường dây sau công tơ dùng chung này cơ bản đáp ứng được các tiêu chuẩn để xóa bán tổng. Còn lại 2.680 công tơ dùng chung các đường dây do nhân dân tự kéo, tiết diện dân dẫn nhỏ, khoảng cách xa, tổn thất điện áp lớn; không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để xóa bán tổng. Công ty Điện lực Hà Giang đã triển khai cho Điện lực các huyện/thành phố dự kiến từ nay đến cuối năm 2021 xóa bán tổng 29 công tơ dùng chung cho khoảng hơn 400 khách hàng.

Đối với các BQL dự án ĐTXD công trình các huyện, BQL dự án ĐTXD công trình Dân dụng và Công nghiệp, các cơ quan đơn vị chưa bàn giao tài sản sang cho ngành điện quản lý; đề nghị khẩn trương hoàn thiện các thủ tục hồ sơ công trình..., chủ động phối hợp chặt chẽ với Công ty Điện lực Hà Giang và các cơ quan chức năng để sớm bàn giao tài sản sang ngành điện quản lý, làm cơ sở bán lẻ điện trực tiếp cho người dân.

UBND tỉnh giao cho UBND các huyện, thành phố chỉ đạo các phòng ban chức năng phối họp với Điện lực huyện/thành phố tổ chức kiểm tra ra soát, tổng họp các danh mục công trình đầu tư, chống quá tải, xóa bán tổng công tơ báo cáo Công ty Điện lực Hà Giang để đăng ký kế hoạch đầu tư hàng năm với Tồng công ty Điện lực miền Bắc. Đồng thời ƯBND các huyện/thành phố căn cứ vào tình hình nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, các chương trình mục tiêu,... để xem xét đầu tư, nâng cấp sửa chữa các tuyến đường dây do nhân dân tự kéo để đảm bảo kỹ thuật, an toàn làm cơ sở cho việc xóa bán công tơ tổng.

Về đầu tư thêm trạm hạ thế:

Hiện nay Công ty Điện lực Hà Giang đang quản lý 1.234 TBA. Qua kiểm tra rà soát tình hình sử dụng điện của nhân dân sau các trạm biến áp, hiện nay tại một số các TBA được đặt ở trung tâm xã, thôn có điện áp thấp hơn quy định, nguyên nhân một phần trong mùa nắng nóng, nhu cầu sử dụng điên tăng cao nên không đảm bảo độ ổn định của điện áp và các thông số kỹ thuật vân hành theo quy định. Vì vậy dẫn đến tình trạng điện áp thấp không ổn định ảnh hướng đến sinh hoạt, sản xuất của nhân dân. Tổng số trạm biến áp thuộc tài sản của các cơ quan, đơn vị chưa bàn giao cho ngành điện: 98 Trạm biến áp.

Để đảm bảo cho nhân dân tại trung tâm các xã, thôn trong tỉnh được sử dụng điện an toàn, ổn định, cung cấp đủ nguồn điện cho sản xuất và sinh hoạt, nâng cao dịch vụ điện đến người dân kịp thời, thuận tiện. Công ty Điện lực Hà Giang sẽ lập kế hoạch cải tạo, sửa chữa đường dây chống quá tải cho các trạm biến áp (được Tập đoàn Điện ỉực Việt Nam, Tong công ty Điện lực mỉển Bắc có quyết định tiếp nhận và giao tài sản cho Công ty Điện lực Hà Giang quản lý), thay thế, nâng cấp công suất máy biến áp và đầu tư thêm các trạm biến áp mới để nâng cao độ ổn định cung cấp điện, đảm bảo an toàn, vận hành lưới điện theo quy định.

Thực hiện bàn giao các trạm hạ thế cho ngành điện quản lý và khai thác:

Căn cứ Quyết định số 41/2017/QĐ-TTg ngày 15/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định trình tự, thủ tục điều chuyển công trình điện được đầu tư bằng vốn nhà nước sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam quản lý việc quyết định điều chuyển, bàn giao công trình điện được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước sang ngành điện quản lý thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.

Đến nay còn 71 công trình điện chưa bàn giao sang ngành điện quản lý, trong đó: 37 công trình UBND tỉnh đã có văn bản gửi Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho ý kiến đồng ý tiếp nhận (văn bản số 1414/ƯBND-KTTH ngày 14/5/2021 của UBND tỉnh), trong quý III/2021, UBND tỉnh trình Bộ Tài chính xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chuyển; Còn 34 công trình do chưa hoàn thiện được hồ sơ pháp lý, các chủ đầu tư, UBND các huyện, thành phố đang hoàn thiện thủ tục để thực hiện trình tự điều chuyển tài sản.
Đề nghị UBND tỉnh có chủ trương, kế hoạch đầu tư kéo điện cho các thôn, xã chưa có điện, vì hiện nay vẫn còn nhiều thôn thuộc các xã vùng sâu, vùng xa chưa đưọc kéo điện lưới nên các hộ dân chưa có điện để sinh hoạt, sản xuất, (một sổ xã có rất nhiều doanh nghiệp đầu tư, khai thác điện trên địa bàn: Xây dựng các thủy điện; Kéo đường cao thê, nhưng dân trong xã vân chưa được sử dụng điện lưới. Điên hình như xã Thuận Hòa, có 04 Thủy điện; 03 trục cao thế, nhưng hiện vân còn 06/15 thôn dân chưa có điện). Hiện nay trên địa bàn tỉnh Hà Giang có một số Công ty đang đầu tư, xây dựng các nhà máy thủy điện bằng nguồn vốn vay tín dụng và vốn tự có của doanh nghiệp. Việc đầu tư xây dựng các tuyến đường dây trung áp, cao áp đi qua địa bàn các thôn bản là để phục vụ tổ chức thi công, truyền tải bán điện từ nhà máy lên lưới điện quốc gia. Do vậy, đối với các tuyến đường dây đấu nối truyền tải từ nhà máy điện lên lưới điện quốc gia thì việc cấp điện cho các hộ dân từ những đường dây dẫn này là rất phức tạp (ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thủ tục mua bán điện với Tổng công ty Điện lực miền Bắc, tính toán tổn thất điện năng; có thể gây sự cố ảnh hưởng gián đoạn trong quá trình truyền tải phát điện, theo Luật Điện lực thì đơn vị bán điện phải có giấy phép hoạt động kinh doanh bán điện,...; Tất cả các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện trên địa bàn đều không đáp ứng được yêu cầu theo quy định).

Giải pháp thực hiện: Đối với các tuyến đường dây phục vụ thi công xây dựng công trình nhà máy thủy điện mà Chủ đầu tư đã hoàn thành đưa nhà máy vào phát điện giao UBND các huyện/thành phổ làm việc trực tiếp với Chủ đầu tư trên địa bàn và Công ty Điện lực Hà Giang để xem xét thống nhất giải pháp để tận dụng, cấp điện cho các hộ dân trong khu vực đảm bảo theo quy định.

Trong thời gian chờ Chính phủ phê duyệt Quyết định chủ trương đầu tư chương trình đầu tư công giai đoạn 2021-2025 Dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách Trung ương. Đề nghị UBND các huyện, thành phố tiếp tục lồng ghép các nguồn vốn hàng năm (các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, nông thôn mới,...) để ưu tiên đầu tư xây dựng công trình cấp điện, nâng cấp sửa chữa các tuyến đường điện do nhân dân tự đầu tư để đảm bảo cấp điện được an toàn, ổn định, chất lượng. Công ty Điện lực Hà Giang xây dựng kế hoạch và đề nghị Tổng công ty Điện lực miền Bắc xem xét hàng năm có kế hoạch bố trí nguồn kính phí để đầu tư xây dựng công trình cấp điện; chống quá tải để xóa bỏ công tơ dùng chung đảm bảo nhu cầu sử dụng điện đảm bảo chất lượng điện năng, giảm bớt khó khăn cho người dân.
Đề nghị UBND tỉnh xem xét trình HĐND tỉnh ban hành các cơ chế, chính sách tiếp tục hỗ trợ tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch, đặc biệt là du lịch mới như: Du lịch mạo hiểm: dù lượn, kỉnh khí cầu, đua xe ô tô, mô tô địa hình; du lịch khám phá, du lịch trải nghiệm...
 

Trong những năm qua tỉnh luôn xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, năm 2016 UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày 21/7/2016 quy định một số chính sách khuyến khích phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, tỉnh đã hỗ trợ cho 285 tổ chức, cá nhân với tổng số tiền là 24.649,11 triệu đồng (Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày 21/7/2016, đã hết hiệu lực từ năm 2020). Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó dịch Covid-19. Ket quả, đã hỗ trợ cho 590 cơ sở lưu trú được hưởng chính sách hỗ trợ giảm tiền điện đợt 1, 2, 3; rà soát các cá nhân bị mất việc làm để hưởng hỗ trợ; giảm giá tiêu thụ nước sinh hoạt đối với các doanh nghiệp du lịch, dịch vụ du lịch; khảo sát hỗ trợ thời gian trả nợ, miễn giảm lãi suất và cho vay mới tổng số 363 cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch với tổng số tiền là 413,8 tỷ đồng.

Thực hiện Chương trình hành động số 01-CTr/TU ngày 20/11/2020 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025; ƯBND tỉnh đã trình Thường trực Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển du lịch Hà Giang giai đoạn 2021-2025, đề xuất 06 nhóm nhiệm vụ giải pháp phát triển du lịch, trong đó có nhiệm vụ: “Xây dựng cơ chế chỉnh sách thúc đấy phát triển du lịch, ban hành cơ chế đặc thù thu hút đẩu tư phát trỉến du lịch, chính sách bảo tồn và phát huy giả trị văn hóa góp phần xây dựng các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo, đa dạng đáp ứng nhu cầu du khách, tạo điểu kiện thuận lợi đê cộng đồng dân cư tham gia kinh doanh du lịch và hưởng lợi từ du lịch; chính sách hô trợ thực hiện sản xuất hàng hóa đoi với một so sản phấm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm OCOP ưên địa bàn tỉnh, nhằm thúc đẩy sản xuất, tạo sản phấm du lịch; Ưu tiên nguồn lực cho các hoạt động xúc tiên quảng bả, đào tạo phát triên nguôn nhân lực du lịch; bảo vệ môi trường du lịch; ho trợ doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh du lịch”. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyêt sô 11- NQ/TU ngày 02/8/2021 về phát triển du lịch Hà Giang giai đoạn 2021-2025.

Đề nghị UBND tỉnh quan tâm và có giải pháp xem xét tuyển dụng con em người địa phương đã tốt nghiệp các trường trung cấp, đại học nhưng chưa có việc làm. Tiếp tục quan tâm công tác cử tuyển con em dân tộc thiểu số của vùng sâu, vùng xa biên giới vùng đặc biệt khó khăn vào đào tạo tại các trường của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
 
Đề nghị UBND tỉnh quan tâm và có giải pháp xem xét tuyền dụng con em người địa phương đã tốt nghiệp các trường trung cấp, đại học nhưng chưa có việc làm: Hàng năm UBND tỉnh chỉ đạo ngành Nội vụ trên địa bàn tỉnh luôn quan tâm, xem xét tuyển dụng con em người địa phương có trình độ vào đội ngũ công chức, viên chức của tỉnh. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành về cán bộ, công chức, viên chức, không có quy định nào ưu tiên tuyển dụng người địa phương. Tại Điều 38 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Điều 21 Luật Viên chức năm 2010 quy định nguyên tắc tuyển dụng đều nêu rõ “Bảo đảm tính cạnh tranh” và chỉ ưu tiên người có tài năng, người có công với nước, với cách mạng, người dân tộc thiểu số. Đối tượng ưu tiến này được Chính phủ hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; theo đó người dân tộc thiểu số (không phân biệt người địa phương hay ở nơi khác đến), được cộng 05 điểm vào kết quả điểm vòng 2 tổng số điểm thi tuyển hoặc xét tuyển. Riêng sinh viên cử tuyển được thực hiện xét tuyển theo quy định tại Nghị định 141/2020 của Chính phủ. Do đó, không có cơ sở để ưu tiên đặc cách trong việc tuyển dụng con em người địa phương.

Về tuyển dụng viên chức: Trên cơ sở nhu cầu của đơn vị, UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch tuyển dụng và các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố tổ chức tuyển dụng theo thẩm quyền hoặc được ƯBND tỉnh uỷ quyền tuyển dụng. Trong năm 2020, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2305/QĐ-ƯBND ngày 07/12/2020 phê duyệt chỉ tiêu tuyển dụng viên chức; đến nay, một số đơn vị đã hoàn thành việc tuyển dụng, một số đơn vị đang triển khai theo quy định.

Đối với tuyển dụng công chức cấp tỉnh, cấp huyện: Thẩm quyền tuyển dụng của UBND tỉnh. Hiện nay, UBND tỉnh đang triển khai Ke hoạch tuyển dụng công chức năm 2020 (Thông báo tuyển dụng số 122/TB-UBND ngày 12/7/2021 được công bố công khai trên cổng Thông tin điện tử tỉnh và Đài PTTH tỉnh, Báo Hà Giang, thời gian thu Phiếu đăng ký dự tuyển từ ngày 12/7-12/8/2021).

Do vậy, đề nghị các bậc cử tri, các cá nhân quan tâm, theo dõi để đăng ký dự tuyển công chức, viên chức tỉnh theo quy định.
Đề nghị UBND tỉnh tiếp tục quan tâm công tác cử tuyển con em dân tộc thiểu số của vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đặc biệt khó khăn vào đào tạo tại các trường của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân:
 
Trong nhiều năm qua, công tác cử tuyển luôn được các cấp, các ngành quan tâm triển khai theo đúng các văn bản của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương. Tính đến tháng 6 năm 2021, toàn tỉnh có 102 sinh viên đang đào tạo theo chế độ cử tuyển tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học. Từ năm 2015 đến năm 2021, toàn tỉnh phải tập trung thực hiện đảm bảo giảm 10% biên chế so với năm 2015, hằng năm không được giao tăng biên chế, nên việc bố trí việc làm cho sinh viên cử tuyển nhiều năm qua gặp rất nhiều khó khăn (có 197 sinh viên1 đã tốt nghiệp nhưng chưa được tuyển dụng, bố trí vào biên chế). Vì vậy, từ năm 2018 đến năm 2021, các sở, ngành và ƯBND các huyện, thành phố không đăng ký chỉ tiêu cử tuyển nên tỉnh không cử học sinh đi học theo chế độ cử tuyển.

Đối với các trường thuộc khối ngành an ninh và quân đội, việc tuyển sinh và đào tạo theo chế độ cử tuyển bắt đầu được quy định tại Nghị định số 141/2020/NĐ-CP ngày 08/12/2020 của Chính phủ về Quy định chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số (có hiệu lực thi hành từ ngày 23/01/2021). Theo đó, tại Điều 11 về cử tuyển vào các cơ sở giáo dục thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, có quy định: "Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong phạm vi nhiệm vụ, quyển hạn của mình tố chức thực hiện chế độ cử tuyển theo quy định của Nghị định này và phù hợp với yêu cầu của lực lượng quân đội, công an". Tuy nhiên, đến nay Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đều chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nội dung này theo quy định. ƯBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo, các cơ quan, địa phương trong tỉnh phối hợp triển khai theo quy định khi có văn bản hướng dẫn.
Đề nghị UBND tỉnh xem xét số lượng con em địa phương đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học hiện nay chưa có việc làm được đào tạo lại thành giáo viên môn Tin học, Tiếng anh để thực hiện chương trình SGK mới 2018, đặc biệt ở cấp Tiểu học, (do một số huyện tuyển dụng cũng không có đủ nguồn tuyển). Đồng thời chú trọng đào tạo con em địa phương và bố trí sắp xếp, tuyển dụng số sinh viên mới ra trường là người địa phương.
 
Giai đoạn 2012-2016 toàn tỉnh có 2.174 sinh viên chưa có việc làm đúng chuyên ngành đào tạo ở tất cả các ngành, nghề. Đen nay, qua theo dõi số lượng này tuy đã giảm mạnh do thực hiện tốt việc phân luồng đào tạo nhưng số sinh viên này vẫn còn chiếm một lượng không nhỏ trong xã hội.

 - Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được triển khai, có một số môn học mới mà nhiều trường thiếu hoặc chưa có giáo viên (môn Tin học, Tiếng Anh, Âm nhạc, Mỹ thuật). Để giải quyết khó khăn này, đồng thời tránh lãng phí nguồn nhân lực đã được đào tạo trình độ đại học, cao đẳng, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tố chức cho sinh viên đăng ký đào tạo để trở thành giáo viên các môn học này theo hình thức vừa làm vừa học. Kết quả có 54 sinh viên đăng ký đào tạo với 04 chuyên ngành (Tin học 28 người, Tiếng Anh 12 người, Âm nhạc 08 người, Mỹ thuật 06 người), số lượng đăng ký mỗi ngành chưa đủ để mở lớp đào tạo tại tỉnh. UBND tỉnh có giải pháp mở các lớp đào tạo giáo viên với đối tượng là sinh viên, học viên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp có nguyện vọng muốn trở thành giáo viên các môn học trên nhằm tránh lãng phí trong đào tạo nguồn nhân lực nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Tỉnh Hà Giang luôn chú trọng đào tạo cho con em người địa phương, một trong các giải pháp đó là đào tạo theo chế độ cử tuyển, với đối tượng là người dân tộc thiểu số rất ít người và người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa có hoặc có rất ít đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số. Cụ thể các năm gần đây tỉnh cử đi học đại học theo chế độ cử tuyển (Năm 2015: 65 sinh viên; Năm 2016: 24 sinh viên; Năm 2017: 06 sinh viên; Từ năm 2018 đến năm 2020 không có). Hiện nay số sinh viên đi học đại học theo chế độ cử tuyển đã tốt nghiệp ra trường từ năm 2016 đến năm 2020 chưa được tuyển dụng là 197 sinh viên (theo kết quả bàn giao đào tạo theo chế độ cử tuyển từ Sở Nội vụ về Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý). Năm 2021, Sở Giáo dục và Đào tạo đã triển khai công tác tuyển sinh cử tuyển, tuy nhiên các huyện không đăng ký nhu cầu đào tạo.

Về bố trí sắp xếp, tuyển dụng số sinh viên mới ra trường là người địa phương, do khó khăn về biên chế giai đoạn 2021-2025, nên không bố trí sắp xếp, tuyển dụng sinh viên mới ra trường là người địa phương, cụ thể:

Đối với công chức, viên chức cấp huyện trở lên: Giai đoạn 2021-2025 sẽ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Riêng viên chức, mục tiêu theo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII: Đến năm 2025, tiếp tục giảm tối thiếu bĩnh quân cả nước 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021.

Đối với chức danh cán bộ, công chức xã: Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố (sửa đổi, bổ sung Nghị định 92/2009/NĐ-CP)2, theo đó toàn tỉnh dôi dư 386 công chức cấp xã chưa có phương án sắp xếp, bố trí được. Bên cạnh đó, thực hiện Đề án của Bộ Công an về bố trí bố trí công an chính quy đảm nhiệm các chức danh công an xã trên địa bàn tỉnh: Mỗi xã dôi dư 01 trưởng công an cần phải chuyển đổi vị trí công tác, toàn tỉnh giảm 193 biên chế ở cấp xã.
Đề nghị UBND tỉnh hướng dẫn, cho chủ trương để bố trí, phân công giáo viên có thể dạy hai trường, đảm bảo giáo viên dạy đúng chuyên môn được đào tạo, không dạy treo môn (do đặc thù các lớp bậc THCS vùng khó khăn chủ yếu chỉ có từ 4 đến 6 lớp nên không thể bố trí giáo viên ở tất cả các môn học tại một trường, vì vậy giáo viên dạy thiếu tiết ở trưòng này có thể phân công sang dạy ở trường thứ hai.
 

Hiện nay không có quy định cụ thể về việc một giáo viên giảng dạy ở hai trường, tuy nhiên trên thực tế một số địa phương trong tỉnh đã linh hoạt bố trí giáo viên giảng dạy ở hai trường trên cùng địa bàn thuận lợi (do thiếu giáo viên đặc biệt là giáo viên môn tiếng Anh, Tin học, Âm nhạc, ...) để các trường đảm bảo thời lượng, chương trình giảng dạy theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Để chuẩn bị tốt cho năm học 2021-2022, UBND tỉnh đã giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo, UBND các huyện, thành phố sắp xếp, bố trí đội ngũ giáo viên hợp lý để đảm bảo giáo viên dạy đúng chuyên môn được đào tạo, dạy đủ số môn, số tiết theo quy định trong các nhà trường.


Đề nghị UBND tỉnh xem xét rút số giáo viên hiện đang biệt phái tại các Trung tâm HTCĐ các xã về để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy (do hiện nay thiếu nhiều giáo viên, ngành không có đủ giáo viên để dạy 2 buổi/ngày).
 
Căn cứ Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng tại xã, phường, thị trấn được ban hành tại Quyết định số 09/2008/QĐ-BGDĐT ngày 24/3/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thông tư số 40/2010/TT-BGDĐT ngày 30/12/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng tại xã, phường, thị trấn ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BGDĐT ngày 24/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,

UBND tỉnh ban hành văn bản số 1583/UBND-KGVX ngày 05/5/2017 về việc triển khai xây dựng đề án đổi mới hoạt động các Trung tâm học tập cộng đồng. Quy định bộ máy các Trung tâm học tập cộng đồng tại xã, phường, thị trấn cụ thể: Giám đốc Trung tâm: Là chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn kiêm nhiệm; Phó giám đốc Thường trực: Là một giáo viên chuyên trách, đang giữ chức vụ tối thiểu từ Tổ phó chuyên môn trở lên; Phó giám đốc kiêm nhiệm: Là một chức danh chủ chốt của xã, phường, thị trấn kiêm Chủ tịch Hội Khuyến học. Thực tế hiện nay ở một số địa phương trong tỉnh do thiếu nhiều giáo viên nên việc biệt phái giáo viên đi làm nhiệm vụ khác càng gây khó khăn cho việc bố trí giảng dạy cho các trường. Tuy nhiên, khó khãn này chỉ trong thời gian ngan, khi các huyện chưa tuyển dụng đủ giáo viên theo quy định.

Năm học 2021-2022, UBND tỉnh yêu cầu UBND các huyện, thành phố tiếp tục thực hiện biệt phái giáo viên sang làm việc tại Trung tâm học tập cộng đồng theo chỉ đạo tại Công văn số 1583/UBND-KGVX ngày 05/5/2017 của UBND tỉnh nhằm ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm hiện nay. Với những xã, thị trấn khó bố trí được giáo viên biệt phái do thiếu nhiều giáo viên giảng dạy, cho phép bố trí một cán bộ lãnh đạo của trường tiểu học hoặc trung học cơ sở trên địa bàn kiêm Phó giám đốc Trung tâm học tập cộng đồng tại xã, phường, thị trấn.
Đề nghị UBND tỉnh sớm thực hiện việc xét thăng hạng viên chửc cho số giáo viên đã có đủ chứng chỉ, bằng cấp, đế được hưởng lương theo chức danh, nghề nghiệp và vị trí việc làm.
 
Ngày 27/02/2019, UBND tỉnh ban hành Công văn số 496/UBND-NCPC về việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức ngành y tế, ngành giáo dục và đào tạo từ hạng IV lên hạng III. Theo đó, việc thăng hạng đối với giáo viên, khi có nhu cầu, Sở Giáo dục và Đào tạo và UBND cấp huyện xây dựng Đe án trình ƯBND tỉnh xem xét, quyết định.

Ngày 02/02/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT, số 02/2021/TT-BGDĐT, số03/2021/TT-BGDĐT, số 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông công lập; ƯBND tỉnh đã ban hành Công văn số 1098/UBND-NCPC ngày 15/4/2021 triển khai thực hiện việc bổ nhiệm vào hạng chức danh nghề nghiệp và xếp lương đối với giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học hạng III nếu đủ điều kiện theo quy định tại Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT và Thông tư số 02/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo (không phải thi hay xét thăng hạng như trước đây).

Đối với thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức từ hạng III lên hạng II: Hiện nay, các đơn vị đang tiến hành rà soát, xây dựng phương án bố nhiệm chức danh nghề nghiệp và xếp lương đối với giáo viên thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định tại 04 Thông tư nêu trên của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trên cơ sở đăng ký nhu cầu của các đơn vị, Sở Nội vụ sẽ rà soát, tham mưu xây dựng Đề án thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức chuyên ngành giáo dục từ hạng III lên hạng II trình cấp thẩm quyền phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện theo quy định.
Đề nghị UBND tỉnh sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Giáo dục và Đào tạo theo quy định tại Thông tư số 12/2020/TT-BGDĐT, ngày 22/5/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Có cơ chế chính sách hỗ trợ các trưòng trang thiết bị giáo dục, quan tâm đến việc xây dựng các trưòng mới tại trung tâm các huyện, thành phố vì hiện nay số lưọng học sinh tại các trường quá đông ảnh hưỏng đến chất lưọng giảng dạy.
 
Ngày 31/5/2021, UBND tỉnh đã ban hành Đề án số 29/ĐA-UBND kiện toàn sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh theo quy định tại Nghị định số 107/2020/NĐ-CP và các phòng chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Nghị định số 108/2020/NĐ-CP của Chính phủ. Ngày 17 tháng 8 năm 2021, UBND tỉnh đã ban hành Hướng dẫn số 1702/HD- UBND hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng Giáo dục và Đào tạo thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định.

Hàng năm, các cơ sở giáo dục được hỗ trợ kinh phí chi cho các chế độ chính sách đối với học sinh theo quy định hiện hành Trung ương và của tỉnh, trong đó có hỗ trợ mua sắm, sửa chữa bàn ghế, tài sản cho các trường học công lập trên địa bàn toàn tỉnh theo định mức quy định tại Nghị quyết số 56/2016/NQ-HĐND ngày 11/12/2016 ban hành Quy định nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách địa phương năm 2017, năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách 2017-2020. Trong những năm tiếp theo từ 2021 và giai đoạn 2022- 2025, các cơ sở giáo dục thực hiện cơ chế chính sách hỗ trợ các trường trang thiết bị giáo dục theo định mức quy định tại Nghị quyết ban hành quy định nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách địa phương năm 2022 (áp dụng cho thời kỳ ổn định ngân sách 2022-2025) theo quy định.

Qua kiểm tra rà soát về thực trạng trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập của nhiều trường đã cũ bị hỏng do trang bị từ lâu, không còn phù họp theo giảng dạy chương trình mới. Nhu cầu về trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập của các cơ sở giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh là rất lớn, rất cần thiết được mua sắm bổ sung để đảm bảo công tác giáo dục đào tạo của các nhà trường. Trong những năm qua, UBND tỉnh bố trí lồng ghép các nguồn lực Chương trình mục tiêu giáo dục vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn; nguồn Chương trình Nông thôn mới; nguồn sự nghiệp giáo dục đào tạo ngân sách cấp tỉnh... để mua sắm bổ sung trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập cho các nhà trường. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí còn hạn hẹp nên việc trang cấp các thiết bị phục vụ công tác giảng dạy cho các trường còn thiếu theo quy định.

Việc đầu tư xây dựng các trường mới tại trung tâm các huyện, thành phố, vì hiện nay số lượng học sinh các trường quá đông ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy. Hiện nay UBND tỉnh đang thực hiện lập quy hoạch tỉnh Hà Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có quy hoạch về quy mô mạng lưới trường lớp, học sinh phù họp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi địa phương theo từng giai đoạn, đồng thời đề nghị Chính phủ tiếp tục đàu tư xây dựng trường lớp học từ nguồn vốn TPCP giai đoạn 2021-2025.
Đề nghị HĐND tỉnh xem xét mức bồi dưỡng đối vói người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố theo Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND, ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh, vì mức quy định hiện tại quá thấp, không đáp ửng được cho những người tham gia hoạt động của thôn, tổ dân phố, do khối lượng công việc của thôn, tổ dân phố nhiều.
 
Căn cứ Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND (thay thế Nghị quyết số 27/2018/NQ-HĐND) đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục và quy định của pháp luật. Trong quá trình triển khai Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh ở cơ sở, có một số ý kiến phản ánh về khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ để tổ chức thực hiện có hiệu quả, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nội vụ phối hợp với UBND các huyện, thành phố đánh giá kết quả thực hiện, kiến nghị đề xuất những nội dung cần sửa đổi trong Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh. Trên cơ sở kết quả đánh giá và đề xuất, kiến nghị của UBND các huyện, thành phố, Sở Nội vụ sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu, đề xuất UBND tỉnh trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương trong thời gian sớm nhất.
Đề nghị UBND tỉnh xem xét có chính sách hỗ trợ các vùng chè trọng điểm để cải tạo cây chè shan tuyết như: Hỗ trợ kinh phí chăm sóc, bảo vệ và trồng dặm. Vì hiện nay cây chè shan tuyết đang có chiều hướng già cỗi, dẫn đến giảm năng suất, sản lượng và chất lượng.

Tỉnh Hà Giang có vùng chè Shan tuyết cổ thụ lâu đời, cây chè mang nhiều nguồn gen quý, cũng như mang lại giá trị kinh tế, văn hóa, lịch sử. Cây chè Shan tuyết là một trong những sản phẩm hàng hoá chủ lực của tỉnh; do đó thời gian vừa qua tỉnh đã ban hành một số chính sách hỗ trợ cho hộ gia đình và gần đây nhất là giai đoạn 2015-2020 Hội đồng nhân dân tỉnh đã có Nghị quyết số 209/2015/NQ- HĐND ngày 10/12/2015 về ban hành chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa trên địa bàn tỉnh (sau được sửa đối, bo sung thành Nghị quyết số 86/2017/NQ-HĐND, ngày 14/7/2017 và Nghị quyết sẻ 29/2018/NQ- HĐND ngày 7/12/2018 và đã hết hiệu ỉực), trong đó có nội dung hỗ trợ phát triển cây chè. Với quan điểm chính sách phát triển sản xuất hàng hóa phải có sự thay đổi từ tiếp cận theo đối tượng hộ gia đình sang đối tượng là Tổ họp tác, HTX để đảm bảo tính bền vững. Vì vậy, hiện nay các tổ chức, cá nhân có thể áp dụng chính sách theo Nghị quyết số 09/2019/NQ-HĐND ngày 19/7/2019 của HĐND tỉnh về phê duyệt chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh khi các tổ chức, cá nhân đáp ứng các tiêu chí, quy định tại Nghị quyết.

Hiện nay, tỉnh đang tổ chức thực hiện đề tài: “Nghiên cửu bảo tồn và phát triển bền vững cây Chè Shan tuyết cổ thụ trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, thời gian thực hiện từ năm 2019-2022. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu Đề tài, ƯBND tỉnh sẽ có giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững đối với cây Chè Shan tuyết trong giai đoạn tới.

Đề nghị UBND tỉnh quan tâm hon nữa đến các chính sách hỗ trợ cho phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, đến các tổ chức tự quản tại thôn, tổ dân phố để động viên các thành viên của các tổ chức này hoạt động hiệu quả hơn
 
Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an, để thực hiện tốt công tác bảo đảm ANTT trên địa bàn toàn tỉnh, năm 2013 ƯBND tỉnh ban hành và tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ” giai đoạn 2013-2020.

Sau khi tổng kết đề án, năm 2021, ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 55/KH-UBND ngày 19/02/2021 về Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021- 2025 và Kế hoạch số 75/KH-UBND ngày 08/3/2021 về nâng cao chất lượng hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tỉnh Hà Giang năm 2021. Nội dung “xây dựng, nhân rộng và nuôi dưỡng mô hình tự quản về an ninh trật tự tại cấp tỉnh và cấp huyện, tô chức tập huấn nghiệp vụ bảo vệ an ninh trật tự, công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ cho lực lượng chủ chốt các thôn, tồ dân phố, thành viên tổ tự quản về ANTT, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên. Trên cơ sở đó, các cơ quan, đơn vị đã tuyên truyền, hướng dẫn đến các địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học trên địa bàn toàn tỉnh, đến nay đã xây dựng được 554 mô hình tổ chức quần chúng bảo đảm ANTT và 2.082 tổ tự quản về ANTT.

Về chủ trương chung việc xây dựng các mô hình tự quản thực hiện theo hướng “Tự quản, tự phòng, tự bảo vệ và tự bảo đảm ”, trên tinh thẩn xã hội hóa, với sự tham gia tự nguyện của cán bộ và nhân dân, không có hỗ trợ phụ cấp cho các thành viên tổ tự quản, tỉnh, các huyện, thành phố, các xã, phường, thị trấn chỉ xem xét cân đối kinh phí hỗ trợ xây dựng ra mắt mô hình, mua sắm một số công cụ hỗ trợ, hỗ trợ sơ kết, tổng kết tại một số địa phương, đơn vị được chọn làm điểm và công tác thi đua, khen thưởng.

Năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh đã bố trí kinh phí cho Công an tỉnh số tiền 1.925 triệu đồng để thực hiện Kế hoạch Nâng cao chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đối với các huyện, thành phố đề nghị chủ động sử dụng dự toán tỉnh giao đầu năm (lĩnh vực chi quốc phòng - an ninh) để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi hỗ trợ nâng cao chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc theo phân cấp quản lý trên địa bàn.
Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đến các tiêu chí xây dựng nông thôn mói đối vói các xã vùng sâu, vùng xa, hiện nay thủ tục quyết toán các công trình trong xây dựng nông thôn mó’i còn rườm rà.
 
Về quan tâm đến các tiêu NTM tại các xã vùng sâu, vùng xa: Thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM theo các giai đoạn 2010 “ 2015 và 2016-2020, căn cứ mục tiêu và nguồn lực thực hiện (của Trung ương, của tỉnh) Tỉnh đã xây dựng kế hoạch để thực hiện theo lộ trình, trong đó có đặt ra số xã đạt chuẩn NTM, số tiêu chí của các xã phải tăng, bình quân tiêu chí đạt được của cả tỉnh để làm căn cứ thực hiện. Đến nay, toàn tỉnh có 44 xã đạt chuẩn NTM; bên cạnh đó, tại các xã không thuộc kế hoạch xây dựng đạt chuẩn NTM, tỉnh đã chỉ đạo xây dựng và hoàn thành theo từng Thôn đạt tiêu chí NTM. Như vậy, ngoài việc tập trung cho các xã đạt chuẩn NTM, trong thời gian vừa qua tỉnh cũng đã quan tâm đến các xã vùng sâu, vùng xa; đặc biệt là các xã, thôn biên giới đến hết năm 2025 sẽ hoàn thành mục tiêu đảm bảo 100% thôn có đường giao thông, điện và không còn xã dưới 15 tiêu chí.

Về thủ tục quyết toán các công trình trong xây dựng NTM: Chương trình MTQG xây dựng NTM ngoài đầu tư từ ngân sách nhà nước thì có sự tham gia đóng góp xã hội hóa (từ hộ gia đình, người dân, tổ chức, cá nhân,...); do đó Chương trình này được thực hiện theo cơ chế đặc thù theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ ngành chuyên môn; Tỉnh đã cụ thể hóa và có quy định theo thiết kế định hình để đảm bảo thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đến việc thực hiện các chính sách hỗ trợ cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhằm đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm tại chỗ. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực là người địa phương.
 
Trong giai đoạn 2016-2020, công tác Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đã mở được 1.522 lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó 972 lớp đào tạo nghề nông nghiệp, 730 lớp phi nông nghiệp; với số lượng được 53.173 lao động nông thôn, trong đó có 45.452 lao động là người dân tộc thiểu số; 5.667 lao động thuộc diện hộ nghèo; 1.717 lao động thuộc diện hộ cận nghèo, 337 lao động thuộc đối tượng người khuyết tật. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 là 46% được nâng lên 54% năm 2020, trong đó qua đào tạo nghề tương ứng 37,1% lên 44%.

Để tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh, ngay từ đầu năm 2021, UBND tỉnh trình Ban thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị sổ 08-CT/TU ngày 06/05/2021 về nâng cao chất lượng GDNN gắn với giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch số 37/KH-UBND ngày 27/01/2021 của UBND tỉnh về Giáo dục nghề nghiệp năm 2021; Quyết định số 856/QĐ-UBND ngày 07/5/2021 của UBND tỉnh về phê duyệt giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực GDNN thuộc phạm vi quản lý của Sở Lao động -TBXH. Phổi hợp với các Sở, ngành, địa phương (Ban Dân tộc tỉnh xây dựng Đe án Chương trình MTQG phát triển KT- XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025; Sở Tài chính, Văn phòng điều phối Nông thôn mới bố trí kinh phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2021; Đang thực hiện tố chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đặt hàng của các huyện, thành phố).

Nguồn nhân lực đang được triển khai đào tạo tập trung vào các đối tượng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số gồm (người có công với cách mạng, dân tộc thiểu số, hộ nghèo, cận nghèo, khuyết tật,..).
Hiện nay các tuyến đường liên xã, liên huyện của các huyện đã xuống cấp rất nhiều. Đề nghị UBND tỉnh có giải pháp đầu tư, nâng cấp các tuyến đường, để cho nhân dân đi lại được thuận tiện, góp phẩn thúc đẩy phát triển kinh tế.
 
Thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/ĐH ngày 17/10/2020 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVII; trong đó, đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2021-2025 là một trong ba khâu đột phá, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành chức năng xây dựng dự thảo Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, dự thảo Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết về đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó “ưu tiên nguồn lực để đầu tư các tuyến đường liên kết vùng có tính lan tỏa cao như hệ thông đường tỉnh, đường liên huyện, đường ra biên giới (ĐT.176, ĐT 176B, ĐT.177, ĐT.178, ĐT.183, đường ra mốc 456...). Đối với các tuyến còn lại, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các huyện, thành phố, bằng các nguồn vốn được phân cấp từ các Chương trình mục tiêu quốc gia và các nguồn vốn khác; rà soát các các tuyến đường liên xã bị hư hỏng trên tuyến, lập kế hoạch và cân đối ngân sách để sửa chữa, bảo trì hoặc đề xuất cải tạo nâng cấp theo quy hoạch.
UBND tỉnh Hà Giang trả lời Kết quả giải quyết, trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri sau kỳ họp thứ Ba và trước kỳ họp thứ Tư HĐND tỉnh khóa XVIII, nhiệm kỳ 2021-2026
Câu hỏi Trả lời
1. Đề nghị sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện việc rà soát và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cơ sở hạ tầng, tài sản công, đất công và một số hộ gia đình trên địa bàn huyện Vị Xuyên cũng như trên địa bàn tỉnh chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Cử tri xã Việt Lâm huyện Vị Xuyên).
2. Hiện nay trên địa bàn huyện có nhiều hộ đang ở, canh tác trên diện tích quy hoạch rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên, dẫn đến khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình theo đề nghị của người dân. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách đặc thù của tỉnh hoặc đề nghị Trung ương có chính sách đặc thù đảm bảo ổn định đời sống dân cư đối với các hộ dân hiện đang ở, canh tác tại vùng lõi, ven rừng đặc dụng, phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên; đồng thời chỉ đạo rà soát, đánh giá và xác định cụ thể diện tích, vị trí thật sự sung yếu hoặc ít sung yếu đề xuất điều chỉnh, bổ sung quy hoạch 3 loại rừng cho phù hợp với điều kiện thực tế và đảm bảo đúng quy định của pháp luật (cử tri huyện Bắc Mê).
3. Đề nghị UBND tỉnh công khai việc xử lý sai phạm đối với các cá nhân, tập thể có liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một số hộ dân tại Ngõ 91, thôn Sơn Hà, xã Ngọc Đường tại Kết luận số 231/KL-UBND ngày 23/12/2020 của UBND tỉnh (cử tri xã Ngọc Đường thành phố Hà Giang).
1. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện rà soát, kết quả như sau:
1.1. Kết quả rà soát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các tổ chức (cơ sở y tế, giáo dục, UBND xã quản lý...):
- Sở Tài nguyên và Môi trường đã ban hành công Văn số 966/STNMT-VPĐKĐĐ, ngày 22/4/2022 về việc rà soát hồ sơ đất đai của các cơ sở giáo dục - đào tạo, cơ sở y tế và UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
- Kết quả: có 09 huyện gửi báo cáo (gồmBắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Mèo Vạc, Quản Bạ, TP Hà Giang, Yên Minh, Xín Mần); với tổng số các điểm đất của tổ chức chưa được cấp Giấy chứng nhận là: 1.148 vị trí, trong đó: Đất của UBND xã và nhà văn hóa thôn là 572 vị trí, Đất cơ sở giáo dục là 490 vị trí, Đất cơ sở y tế là 86 vị trí. Còn 02 huyện chưa có báo cáo (Quang Bình và Vị Xuyên).
1.2. Kết quả cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện Vị Xuyên:
- Tổng số hồ sơ tiếp nhận là 118.834 hồ sơ, trong đó: Cấp lần đầu: 83.485hồ sơ; Cấp đổi: 35.349 hồ sơ.
- Số hồ sơ đủ điều kiện : 108.049 hồ sơ, trong đó: Cấp đổi 32.514 hồ sơ; Cấp lần đầu 75.535 hồ sơ.
- Số Giấy chứng nhận đã ký: 76.048 Giấy, trong đó: Số giấy chứng nhận phải thực hiện nghĩa vụ tài chính: 20.660 giấy; không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính: 55.388 giấy.
- Số Giấy chứng nhận đã trao cho hộ dân là: 54.085/55.388 giấy; số giấy chứng nhận đã trao nhưng người dân không đến lấy: 1.303 giấy.
- Kết quả lập phiếu chuyển thông tin thuế là 8.465/20.660 phiếu.
1.3. Kết quả cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên
- Tổng số hồ sơ tiếp nhận là 5.024 hồ sơ, trong đó: Cấp lần đầu: 2.662 hồ sơ;  Cấp đổi: 2.362 hồ sơ.
- Số hồ sơ đủ điều kiện : 4.825 hồ sơ, trong đó: Cấp đổi 2.362 hồ sơ; Cấp lần đầu 2.463 hồ sơ.
- Số Giấy chứng nhận đã ký: 4.825 giấy, trong đó: Phải thực hiện nghĩa vụ tài chính: 1.889 giấy; không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính: 2.936 giấy.
- Số Giấy chứng nhận đã trao cho người dân là: 2.268/3.025 giấy; số giấy chứng nhận người dân không đến nhận: 757 giấy.
Lý do: Người dân không đến nhận, một số trường hợp đang thế chấp tại Ngân hàng, đi làm xa không có mặt tại địa phương, một số trường hợp không có giấy ủy quyền khi đi nhận thay, người sử dụng đất chưa tìm thấy Giấy chứng nhận gốc đã cấp, một số trường hợp người sử dụng đất chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính khi đã có thông báo thuế.
2.1. Về việc Đề nghị nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách đặc thù của tỉnh hoặc đề nghị Trung ương có chính sách đặc thù đảm bảo ổn địnhđời sống dân cư đối với các hộ dân hiện đang ở, canh tác tại vùng lõi, ven rừng đặc dụng, phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên:
Trong giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh đã có chính sách hỗ trợ ổn định đời sống dân cư theo cơ chế chính sách tại quyết định số 1776/QĐ-TTg ngày21/01/2012 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng: Thiên tai, đặc biệt, khó khăn, biên giới, hải đảo, di dân tự do, khu rừng đặc đặc dụng giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng đến năm 2020. Theo đóđã hỗ trợ ổn định được 45 hộ thuộc đối tượng sinh sống trong khu rừng đặc dụng, phòng hộ trên địa bàn tỉnh.
Theo số liệu của các Ban quản lý rừng nắm bắt được, trên diện tích đất rừng đặc dụng được giao quản lý còn có nhiều hộ dân đang sinh sống trên đất quy hoạch cho rừng đặc dụng cần được xem xét di chuyển ra khỏi khu vực rừng đặc dụng hoặc điều chỉnh quy hoạch đưa ra khỏi đất rừng đặc dụng để các hộ canh tác ổn định và sử dụng lâu dài. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 590/QĐ-TTg ngày 18/5/2022 về việc phê duyệt chương trình bố trí dân cư giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó có đối tượng là cá nhân sinh sống hợp pháp trong khu rừng đặc dụng cần phải bố trí, ổn định lâu dài; vì vậy UBND tỉnh sẽ triển khai trong thời gian tới.
2.2. Về việc đề nghị rà soát, đánh giá và xác định cụ thể diện tích, vị trí thật sự sung yếu hoặc ít sung yếu đề xuất điều chỉnh, bổ sung quy hoạch 3 loại rừng cho phù hợp với điều kiện thực tế và đảm bảo đúng quy định của pháp luật:
UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp cùng Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND các huyện, thành phố và đơn vị tư vấn xây dựng Phương án phát triển lâm nghiệp bền vững, bảo vệ và quy hoạch phát triển ba loạirừng (phòng hộ, đặc dụng, sản xuất) thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, thống nhất tích hợp vào quy hoạch tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021 – 2030.
Tính đến 31/12/2021 diện tích rừng và đất chưa có rừng quy hoạch cho lâm nghiệp của tỉnh là: 576.126,8 ha (đất rừng đặc dụng 59.525,8 ha; đất rừng phòng hộ: 233.341,3 ha; đất rừng sản xuất: 283.259,7).
Theo Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 9/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phân bổ chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021-2025 thì đến năm 2030 thì tổng diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh Hà Giang sẽ là: 568.182,0 ha (như vậy toàn tỉnh chỉ giảm được 7.944,8ha), trong đó:
- Đất rừng phòng hộ là 231.848 ha (giảm 1.493.3 ha so với hiện nay);
- Đất rừng đặc dụng 59.544 ha (tăng 18,2 ha, về cơ bản giữ nguyên như hiện nay);
- Đất rừng sản xuất 276.790 ha (giảm 6.469,7 ha so với hiện nay).
 Hiện nay Sở Nông nghiệp và PTNT đang phối hợp Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường rà soát, thống nhất số liệu trên cơ sở đề xuất của UBND các huyện, thành phố đảm bảo theo Quyết định số 326/QĐ-TTg và thực tiễn của các huyện, thành phố.
3. UBND tỉnh đã có Kết luận thanh tra số 231/KL-UBND ngày 23/12/2020, theo đó UBND thành phố Hà Giang đã ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện và chỉ đạo, hướng dẫn Phòng Tài nguyên và Môi trường và UBND xã Ngọc Đường tổ chức họp kiểm điểm, xác định rõ trách nhiệm đối với từng cán bộ, công chức có liên quan trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2020; thành lập Hội đồng kỷ luật và tiến hành họp kiểm điểm xem xét trách nhiệm từng cá nhân theo quy định của pháp luật.
Sau khi Hội đồng kỷ luật họp xét, UBND thành phố đã công khai kết quả xử lý tại các cơ quan đơn vị và ban hành Thông báo số 139/TB-UBND ngày 09/7/2021 về kết quả kiểm điểm trách nhiệm đối với cán bộ, công chức có liên quan đến các khuyết điểm, sai phạm tại Khu đất Ngõ 91, thôn Sơn Hà, xã Ngọc Đường, thành phố Hà Giang theo kết luận thanh tra của UBND tỉnh.
1. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư kéo điện phục vụ sản xuất, sinh hoạt và xây dựng cột phát sóng điện thoại cho 03 thôn trên cao với tổng số hơn 200 hộ dân đang sinh sống (thôn Pải Chư Phìn, Thào Chư Phìn, Xà Phìn). Hiện nay 03 thôn trên chưa có sóng điện thoại cũng như điện lưới phục vụ sản xuất, sinh hoạt của người dân (cử tri xã Bát Đại Sơn huyện Quản Bạ).
2. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm xây dựng Trạm hạ thế cho thôn Ma Lỳ Sán, vì hiện nay thôn đang kéo điện từ huyện Si Ma Cai - Lào Cai để sử dụng, hiện tại điện rất yếu (cử tri xã Pà Vầy Sủ huyện Xín Mần).
3. Đề nghị UBND tỉnh hỗ trợ kéo điện cho nhân dân các thôn Nà Cuổng I, Nà Pù, Phiêng Tòng, Nà Pinh, Pó Pia, Nà Cuổng II xã Niêm Tòng và thôn Sủng Ú xã Sủng Máng (cử tri xã Niêm Tòng, Sủng Máng huyện Mèo Vạc).
4. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm hỗ trợ lắp đặt 01 trạm tiếp sóng Viettel và VinaPhone tại thôn Thâm Mang và thôn Già Nàng, hiện nay hai thôn Thâm Mang, Già Nàng không có sóng điện thoại (cử tri xã Nà Khương huyện Quang Bình).
5. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo:
- Đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến đường điện thôn Thào Chư Ván (theo Công văn số 2141/UBND-KTTH ngày 07/7/2021 của UBND tỉnh và Công văn số 1390/STC-ĐT ngày 21/7/2021 của Sở Tài chính về việc đầu tư công trình điện cấp thiết huyện Xín Mần năm 2021, hiện nay mới hoàn thành công đoạn khảo sát (cử tri xã Pà Vầy Sủ huyện Xín Mần).
1a) Hiện trạng cấp điện:
Xã Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ có 09 thôn. Tổng số hộ dân có 685 hộ trong đó có 514/685 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt tỷ lệ 75%, số hộ chưa được sử dụng điện 63/685 hộ, đạt tỷ lệ 9%; có 108/685 hộ dân dùng điện từ các nguồn (máy phát điện mini, pin mặt trời...), đạt tỷ lệ 16%, có 15 công tơ dùng chung cho 112 hộ.
- Hiện tại Xã Bát Đại Sơn có 09 thôn, 06 thôn đã có điện lưới quốc gia đảm bảo an toàn. Còn 03 thôn chưa có điện sử dụng gồm:
- Thôn Thào Chư Phìn: Có tổng số hộ dân là 55 hộ, số hộ chưa được sử dụng điện 25 hộ, số hộ dân sử dụng pin năng lượng mặt trời để chiếu sáng là 30 hộ.
- Thôn Xà Phìn: Có tổng số hộ dân là 34 hộ, số hộ chưa được sử dụng điện 14 hộ, số hộ dân sử dụng pin năng lượng mặt trời để chiếu sáng là 20 hộ.
- Thôn Pải Chư Phìn: Có tổng số hộ dân là 82 hộ, số hộ chưa được sử dụng điện 27 hộ, số hộ dân sử dụng pin năng lượng mặt trời để chiếu sáng là 55 hộ.
b) Giải pháp thực hiện cấp điện:
- Đối với thôn Thào Chư Phìn là thôn biên giới, đã có chủ trương đầu tư trong năm 2024, tại Kế hoạch 146/KH-UBND ngày 06 tháng 5 năm 2021 của UBND tỉnh Hà Giang, về việc thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ thôn biên giới có điện đạt tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.
- Về quy mô, khối lượng và giá trị đầu tư xây dựng cho các thôn Thôn Xà Phìn, Thôn Pải Chư Phìn đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1775/QĐ-UBND ngày 02/10/2020 về Phê duyệt điều chỉnh Dự án Cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách trung ương. Tuy nhiên đến thời điểm hiện nay Chính phủ chưa bố trí được nguồn vốn nên Chủ đầu tư (Ban quản lý dự án ĐTXD công trình công nghiệp và dân dụng tỉnh Hà Giang) chưa tổ chức triển khai thực hiện.
Hiện tại do nguồn vốn của Trung ương và của Tỉnh còn hạn chế và do ảnh hưởng tình hình dịch Covid – 19. Căn cứ vào tình hình thực tế, UBND huyện Quản Bạ xem xét cân đối các nguồn vốn từ ngân sách huyện, các chương trình mục tiêu,... hàng năm, ưu tiên đầu tư mới các trạm biến áp, tuyến đường dây cấp điện cho các hộ dân theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm để giảm bớt chi phí đầu tư. 
2. Công trình Trạm Biến áp thôn Ma Lỳ Sán xã Pà Vầy Sủ đã được UBND tỉnh Hà Giang đưa vào lộ trình thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ thôn biên giới có điện đạt tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 tại Kế hoạch số 146/KH-UBND ngày 06/5/2021 của UBND tỉnh, được UBND huyện Xín Mần đưa vào kế hoạch đầu tư từ nguồn vốn Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội, giai đoạn 2022-2025.
3. a) Hiện trạng cấp điện.
+ Xã Niêm Tòng, huyện Mèo Vạc có 08 thôn. Tổng số hộ dân có 1.062 hộ trong đó có 450/1.062 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt tỷ lệ 42%, số hộ chưa được sử dụng điện 438/1.062, đạt tỷ lệ 41% số hộ, số hộ dân sử dụng pin năng lượng mặt trời để chiếu sáng là 174/1.062 hộ, đạt tỷ lệ 16%, có 13 công tơ dùng chung cho 274 hộ, cụ thể như sau:
- Thôn Phiêng Tòng có 125 hộ dân trong đó có 94 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, có 31 hộ dân dùng điện từ nguồn pin mặt trời để chiếu sáng.
- Thôn Pó Pi A có 139 hộ dân trong đó có 83 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, có 56 hộ dân dùng điện từ nguồn pin mặt trời để chiếu sáng.
- Thôn Cốc Pại có 130 hộ dân trong đó có 84 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, có 46 hộ dân chưa có điên để sử dụng.
- Thôn Nà Cuồng 1 có 91 hộ dân trong đó có 77 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, có 14 hộ dân dùng điện từ nguồn pin mặt trời để chiếu sáng.
- Thôn Pó Qua có 119 hộ dân trong đó có 15 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, có 104 hộ dân chưa được sử dụng điện.
- Thôn Nà Cuổng I có 131 hộ dân trong đó có 71 hộ chưa có điên để sử dụng, có 60 hộ dân dùng điện từ nguồn pin mặt trời để chiếu sáng.
- Thôn Nà Cuổng II có 186 hộ dân trong đó có 65 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 121 hộ chưa có điên để sử dụng.
- Thôn Nà Pù có 141 hộ dân trong đó có 32 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 109 hộ chưa có điên để sử dụng.
+ Đối với xã Sủng Máng, huyện Mèo Vạc có 05 thôn với tổng số hộ dân có 570 hộ trong đó có 573/570 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt tỷ lệ 95%, số hộ chưa được sử dụng điện 77/570, đạt tỷ lệ 5%, có 01 công tơ dùng chung cho 67 hộ. Hiện tại có 04/05 thôn đã có điện lưới quốc gia đảm bảo an toàn và 01/05 thôn chưa chưa đảm bảo tiêu chí điện nông thôn (Thôn Sủng Ú có 94 hộ có 67 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 27 hộ chưa được sử dụng điện, có 01 công tơ dùng chung cho 67 hộ).
b) Giải pháp thực hiện cấp điện:
- Về quy mô, khối lượng và giá trị đầu tư xây dựng cho các thôn Phiêng Tòng, thôn Nà Cuổng I, Nà Cuổng 2, thôn Nà Pù, thôn Pó Qua, xã Niêm Tòng; thôn Sủng Ú xã Sủng Máng đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1775/QĐ-UBND ngày 02 tháng 10 năm 2020 về Phê duyệt điều chỉnh Dự án Cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tỉnh Hà Giang, sử dụng vốn ngân sách trung ương. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay Chính phủ chưa bố trí được nguồn vốn nên Chủ đầu tư (Ban quản lý dự án ĐTXD công trình công nghiệp và dân dụng tỉnh Hà Giang) chưa tổ chức triển thực hiện.
- Hiện tại do nguồn vốn của Trung ương và của Tỉnh còn hạn hẹp, do đó căn cứ vào tình hình thực tế,UBND huyện Mèo Vạc xem xét cân đối các nguồn vốn từ ngân sách huyện, các chương trình mục tiêu,... hàng năm, ưu tiên đầu tư mới các trạm biến áp, tuyến đường dây cấp điện cho các hộ dân, theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm để giảm bớt chi phí đầu tư.
- UBND huyện Mèo Vạc chỉ đạo phòng chuyên môn phối hợp Điện lực huyện, UBND xã hướng dẫn các hộ dân thường xuyên duy tu, bảo dưỡng, thay thế hệ thống sau công tơ đảm bảo kỹ thuật an toàn theo quy định. 
4.  UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền Thông phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông rà soát các khu vực chưa có sóng di động hoặc có nhưng chất lượng không đảm bảo, kết quả cụ thể như sau:
* Nhà mạng VNPT
- Hạ tầng
Tại xã Nà Khương huyện Quang Bình, Viễn thông Hà Giang hiện có 01CSHT trạm có 03 thiết bị G900/U900/LTE (QBH012M). Tỷ lệ phủ sóng đạt88%.
Xã Nà Khương VNPT đã cung cấp các dịch vụ băng rộng cố định đếntrung tâm xã, phát triển dịch vụ băng rộng cố định tới một số thôn có nhu cầu.
- Chất lượng dịch vụ tại 02 thôn Thâm Mang và Già Nàng:
STT Thôn Chất lượng sóng Dịch vụ băng rộng cố định
Mức thu 2G Mức thu 3G Mức thu 4G
1 Nà Khương Thâm Mang -95dBm -100dBm Không có Không có
2 Nà Khương Già Nàng -95dBm -100dBm Không có Không có
Do các thôn nằm trên địa hình núi cao phức tạp, bị che chắn, tỷ lệ phủ sóng sau khi thực hiện tối ưu đạt 90%
* Nhà mạng Viettel
- Hạ tầng: Đã có trạm HGG0162 phủ sóng gần khu vực
- Chất lượng dịch vụ tại 02 thôn Thâm Mang và Già Nàng:
STT Thôn Chất lượng sóng Dịch vụ băng rộng cố định
Mức thu 2G Mức thu 3G Mức thu 4G
1 Nà Khương Thâm Mang -90dBm -110dBm -117dBm Không có
2 Nà Khương Già Nàng -91dBm -106dBm -116dBm Không có
Chất lượng sóng 2G có cải thiện; 3G, 4G không cải thiện do đồi núi che khuất, tỷ lệ vùng phủ sóng vẫn còn kém.
Trong thời gian tiếp theo Viễn thông Hà Giang sẽ lập quy hoạch bổ sung trạm BTS tại xã Nà Khương để xây dựng trong giai đoạn 2023-2025. Tăng cường tiếp thị quảng bá, phát triển dịch vụ băng rộng cố định tại các thôn bản, tổ chức triển khai kéo cáp quang đến các khu vực thôn bản có nhu cầu.
 5. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Xín Mần hoàn thành công tác lập hồ sơ đầu tư, hiện nay công trình đang triển khai thi công. UBND huyện Xín Mần sẽ đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành công trình, đưa vào sử dụng trong năm 2022.
- Chỉ đạo sớm bàn giao công trình điện thôn Si Khà Lá (đã hoàn thành từ năm 2017) cho Điện lực huyện quản lý, hiện nay các hộ gia đình dùng điện không có hóa đơn từng hộ mà chia theo công tơ tổng, giá điện cao, khó khăn cho Nhân dân (Cử tri xã Pà Vầy Sủ huyện Xín Mần).
UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Xín Mần giao các phòng ban chuyên môn phối hợp hoàn thiện hồ sơ, bàn giao công trình điện thôn Si Khà Lá (đã hoàn thành từ năm 2017) cho ngành điện quản lý. Dự kiến sẽ bàn giao trong năm 2022.
Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng tỉnh và UBND Thành phố Hà Giang giải quyết dứt điểm những vướng mắc về thu hồi đất đai của Hợp tác xã Rau cá Minh Khai theo kết luận thanh tra (Cử tri phường Minh Khai thành phố Hà Giang).
 
UBND tỉnh đã có Kết luận thanh tra số 187/KL-UBND ngày 20/6/2017 về việc quản lý, sử dụng đất đai theo quy định của Luật đất đai, Luật Hợp tác xã đối với HTX Rau Cá Minh Khai. Theo đó, Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND thành phố Hà Giang đã xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện kết luận thanh tra, đến nay Sở Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 257/QĐ-STNMT ngày 21/9/2018 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đã cấp cho HTX Rau Cá Minh Khai; Thông báo số 274/TB-VPĐKĐĐ ngày 23/5/2022 của Văn phòng Đăng ký đất đai về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp của Hợp tác xã Rau cá Minh Khai.
Hiện nay, UBND tỉnh đang tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện hủy bỏ Hợp đồng thuê đất số 09/HĐTĐ ngày 26/5/2015 đối với HTX Rau Cá Minh Khai và phối hợp với UBND thành phố Hà Giang buộc các hộ gia đình trả lại đất đã lấn, chiếm cho UBND phường Minh Khai quản lý theo quy định của pháp luật.
Đề nghị UBND tỉnh xem xét: Mở rộng đối tượng vay vốn theo Nghị quyết 58/2020/NQ-HĐND về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền vững cây cam sành trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 đến các hộ trung bình để thực hiện Nghị quyết 05 của BCH Đảng bộ tỉnh về “Cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025” (cử tri xã Việt Lâm huyện Vị Xuyên).
 
Ngày 09/12/2020 Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 58/NQ-HĐND về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền vững cây Cam Sành trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025 (gọi tắt Nghị quyết “58”). Trong đó có chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế vườn hộ. Đối tượng, định mức, thời gian vay vốn: Là hộ nghèo, hộ cận nghèo có lao động, có nhu cầu vay vốn cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ đáp ứng các điềukiện về vay vốn theo quy định tại Nghị quyết “58” được vay vốn với lãi suất bằng 0%; mức vay tối thiểu 10 triệu đồng/hộ và tối đa là 30 triệu đồng/hộ; thời gian vay tối đa 30 tháng kể từ ngày được giải ngân. Mục đích Nghị quyết “58” hướng đến các hộ nghèo, cận nghèo được thụ hưởng chính sách (vay vốn): (1) Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quátrình thực hiện công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước; (2) Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo (ưu tiên người nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số) nhằm cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong việc hưởng thụ dịch vụ công và phúc lợi xã hội, trong thu nhập và đời sống giữa thành thị và nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. (3) Đặc biệt hộ nghèo, cận nghèo lànhững hộ rất khó khăn để tiếp cận nguồn vốn vay phát triển kinh tế hộ gia đình nhằm thoát nghèo.

Tuy nhiên, để hạn chế tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, sự trợ giúp từ cộng đồng, Nghị quyết “58” đã có sự thay đổi, đó là chuyển từ chính sách hỗ trợ cho không sang chính sách hỗ trợ có điều kiện; tức là phải có tiêu chí rõ ràng, có điều kiện ràng buộc cụ thể trong tổ chức thực hiện ngay từ khâu rà soát ban đầu. Theo Nghị Quyết “58” chủ trương của tỉnh là ưutiên các đối tượng gặp khó khăn trước (các hộ nghèo, cận nghèo); đối với các hộ từ trung bình trở lên tỉnh vẫn khuyến khích và có triển khai theo các cơ chế, chính sách khác trong việc hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm như: Nghị quyết 09/2019/NQ-HĐND ngày 19/7/2019 của HĐND tỉnh; cơ chế, chính sách trong thực hiện các chương trình MTQG; các cơ chế, chính sách hiện hành khác của tỉnh và Trung ương.
1 Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường điểm đầu từ Trụ sở UBND xã Bát Đại Sơn đi đến các mốc biên giới 338, 339 với tổng chiều dài khoảng 05km tuyến đường đi qua 04 thôn: Thôn Mố Lùng, Lao Chải, Na Cạn, Cốc Méo của xã Bát Đại Sơn huyện Quản Bạ hiện đã xuống cấp trầm trọng (cử tri xã Bát Đại Sơn huyện Quản Bạ).
2. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường: từ thôn Đoàn Kết, xã Ngọc Đường đi xã Kim Thạch, huyện Vị Xuyên, hiện nay tuyến đường đã xuống cấp nghiêm trọng (cử tri xã Ngọc Đường thành phố Hà Giang).
3. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường: Nâng cấp, rải nhựa tuyến đường liên xã từ Niêm Tòng sang xã Khâu Vai (cử tri xã Niêm Tòng, huyện Mèo Vạc).
4. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm hỗ trợ xi măng làm các tuyến đường bê tông dân sinh đi các nhóm hộ dân trong thôn Sủng Nhỉ B, Sủng Nhỉ A, Sủng Ú, Sủng Máng (cử tri xã Sủng Máng huyện Mèo Vạc); các thôn Nà Cuổng I, Nà Pinh, Pó Pia (cử tri xã Niêm Tòng huyện Mèo Vạc).
5. Đề nghị tỉnh quan tâm đầu tư làm tuyến đường vành đai biên giới từ xã Pố Lồ đi mốc 230, hạng mục: đường bê tông xi măngrộng 3,5m, dày 20 cm, chiều dài 2.200m (cử tri xã Pố Lồ, huyện Hoàng Su Phì).
6. Đề nghị tỉnh đầu tư xây dựng 01 nhà làm việc cho UBND xã Pố Lồ, do nhà làm việc của khối đoàn thể đã được xây từ lâu, hiện nay đã xuống cấp. Hạng mục: nhà 2 tầng, 7 gian và quan tâm di dời hoặc đầu tư xây kè khu vực quanh trụ sở xã do khu vực này có nguy cơ sạt lở cao (cử tri xã Pố Lồ, huyện Hoàng Su Phì)
7.Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng nhà lưu trú cho cán bộ, công chức (cử tri xã Bát Đại Sơn huyện Quản Bạ).
8. Đề nghị tỉnh nâng cấp và đổ tuyến đường vành đai biên giới từ chợ Pác Ngàm, xã Thàng Tín qua trung tâm thôn Cáo Phìn, xã Thèn Chu Phìn đi xã Lao Chải của huyện Vị Xuyên (cử tri xã Thèn Chu Phìn, huyện Hoàng Su Phì).
9. Đề nghị quan tâm đầu tư: (1) Xây dựng hồ chứa nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt cho 03 thôn: Pải Chư Phìn, Thào Chư Phìn, Xà Phìn (cử tri xã Bát Đại Sơn huyện Quản Bạ). (2) Bể nước sinh hoạt tập trung cho thôn Nà Cuổng I, Nà Pinh, Pó Pia (cử tri xã Niêm Tòng huyện Mèo Vạc). (3) Xây dựng 03 Hồ treo chứa nước cho 03 thôn: Séo Sả Lủng(174 hộ = 893 nhân khẩu); thôn Mua Lài Lủng (61 hộ = 434 nhân khẩu) thôn Sả Lủng (109 hộ = 632 nhân khẩu) (cử tri xã Pải Lủng huyện Mèo Vạc).
10. Đề nghị quan tâm đầu tư tuyến đường từ thôn Tùng Cụm, xã Nà Khương sang bản Thâu 1, xã Xuân Thượng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, với tổng chiều dài khoảng 2,2km (cử tri xã Nà Khương huyện Quang Bình)
11. Đề nghị tỉnh đầu tư kinh phí xây mới Trường PTDTBT Tiểu học xã Hố Quáng Phìn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu dạy, học và các hoạt động của nhà trường. Hiện tại trường gồm có 02 nhà lớp học hai tầng với 13 phòng được xây dựng từ (1998 - 2002) và đang xuống cấp; diện tích khuân viên nhà trường trật hẹp, giáp sát đường giao thông liên xã không đảm cho các hoạt động của giáo viên, học sinh và không đủ điều kiện xây dựng trường chuẩn; đến nay huyện, xã đã xác định được vị trí xây mới nhưng không có kinh phí để đầu tư xây dựng (Cử tri xã Hố Quáng Phìn huyện Đồng Văn)
12. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo chủ đầu tư (Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Hà Giang trực thuộc sở Nông nghiệp & PTNT) sửa chữa, khắc phục dự án công trình cấp nước sinh hoạt khu trung tâm xã Việt Vinh huyện Bắc Quang cung cấp nước phục vụ sinh hoạt cho các thôn: Tân Bình, Tân Tiến, Tân An, Tân Thành và một số hộ thuộc thôn Minh Thành. Tuy đã sửa chữa, khắc phục 01 lần nhưng sau khoảng 01 tháng sử dụng công trình hoạt động không hiệu quả, không điều tiết nước, một số đã vị trí bị hư hỏng một số hộ dân không có nước sử dụng (cử tri xã Việt Vinh huyện Bắc Quang).
13. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm bổ sung kinh phí cho huyện Quang Bình để thực hiện nâng cấp xã Xuân Giang đến năm 2025 trở thành đô thị loại 5 (cử tri xã Xuân Giang, huyện Quang Bình)
1. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ thực hiện rà soát báo cáo tỉnh đưa vào nhu cầu đầu tư các công trình thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 (Báo cáo số 253/BC-UBND ngày 22/3/2022 của UBND huyện). Ngày 22/11/2021 UBND tỉnh Hà Giang đã có Công văn số 4656/UBND-KTTH ngày về việc xin bổ sung vốn đầu tư xây dựng công trình sửa chữa, nâng cấp, mở tuyến đường giao thông xã biên giới đến Mốc 338 và Mốc 339 xã Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính.
2. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND thành phốgiao các phòng ban chuyên môn phối hợp rà soát, kiểm tra và chủ động sử dụng nguồn ngânsách thành phố để sửa chữa các vị trí hư hỏng thuộc địa phận thành phố, bảo đảmgiao thông đi lại.
Đối với các vị trí thuộc địa phận huyện Vị Xuyên: UBND thànhphố đã giao phòng QLĐT thành phố làm việc với phòng Kinh tế - Hạ tầng huyệnVị Xuyên, kết quả UBND huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo các đơn vị chức năng thường xuyên kiểm tra, kịp thời thực hiện việc duy tu, bảo dưỡng; chỉ đạo phát quang, dọn dẹp hai bên đường, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Đến nay, cơ bản các vị tríhư hỏng, xuống cấp đã được các địa phương triển khai khắc phục.
3. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Mèo Vạc giao Phòng Kinh tế và Hạ tầng phối hợp với Ban quản lý dự án ĐTXD huyện, UBND xã Niêm Tòng, xã KhâuVai tiến hành khảo sát, đánh giá cụ thể tình hình đoạn đường từ UBND xã Niêm Tòng - xã Khâu Vai; dự toán đầu tư công trình với tổng kinh phí đầu tư nâng cấpcải tạo là 147,6 tỷ đồng bao gồm các hạng mục: Nâng cấp rải nhựa mặt đường,hệ thống rãnh thoát nước, hệ thống kè chống sạt… Do nguồn kinh phí thực hiện lớn, vì vậy cần phải có thời gian để bố trí kếhoạch vốn thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 nên việc đầu tư nâng cấp rải nhựatuyến đường từ UBND xã Khâu Vai - UBND xã Niêm Tòng còn gặp nhiều khó khăn không thể thực hiện ngay được. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo các sở, ngành của tỉnh nghiên cứu, bố trí cácnguồn lực đầu tư để thực hiện thi công tuyến đường trong giai đoạn 2021-2025.
4. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Mèo Vạc tiến hành rà soát, đăng ký nhu cầu hỗ trợ xi măng với Văn phòng điềuphối NTM tỉnh;UBND huyện Mèo Vạc đã đăng ký với tổng khối lượng là 2.535 tấn, trong đó có các danh mục công trình của các thôn thuộc xã Sủng Máng, Niêm Tòng. Tuy nhiên, năm 2021 không phân bổnguồn vốn Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, trong khi đó nguồn kinh phí của huyện còn rất khó khăn chủ yếu dành cho công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Vì vậy, trong năm 2022 sau khi tỉnh phân bổ nguồn vốn Chương trình MTQG xây dựng NTM và các Chương trình MTQG khác, UBND huyện Mèo Vạc sẽ phân bổ kinh phí cho các xã, thôn tổ chức triển kkai thực hiện.
5. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì giao các xã tự nâng cấp, sửa chữa đảm bảo đi lại an toàn; đồng thời chỉ đạo ngành chuyên môn khảo sát, tính toán cụ thể, đánh giá mức độ cấp bách để báo cáo UBND tỉnh xem xét. Hàng năm chủ động đưa vào kế hoạch Chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình mục tiêu khác để triển khai thực hiện. UBND tỉnh sẽ tiếp tục kiến nghị với Quân khu II- Bộ Quốc phòng xem xét hỗ trợ đầu tư để đảm bảo thuận tiện cho công tác tuần tra, kiểm soát Biên giới của lực lượng chức năng cũng như đi lại, giao thương, trao đổi hàng hóa của nhân dân để phát triển Kinh tế - Văn hóa xã hội, Quốc phòng - An ninh. Khi bố trí được nguồn vốn sẽ triển khai thực hiện theo thứ tự ưu tiên.
6. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra, rà soát quy mô và tổng mức đầu tư đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng, chủ động cân đối, bố trí nguồn vốn đầu tư trong trường hợp cần thiết. UBND huyện Hoàng Su Phì đã giao các phòng, ban chuyên môn phối hợp với UBND các xã tiến hành kiểm tra, rà soát quy mô và tổng mức đầu tư đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng hiệu quả; đồng thời xem xét, cân đối bố trí nguồn vốn ngân sách huyện và lồng ghép các nguồn vốn Chương trình mục tiêu Quốc gia trong giai đoạn 2021-2025 để triển khai đầu tư theo thứ tự ưu tiên.
7. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ thực hiện rà soát, đưa nội dung vào Kế hoạch số 262/KH-UBND ngày 29/10/2019 của UBND huyện về việc đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
8. UBND tỉnh đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Su Phì đăng ký tuyến đường trên vào danh mục dự án 4 - Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2022-2025 (Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng chính phủ) với quy mô dự kiến đổ đường bê tông rộng 3,5m.
Hiện nay, do nguồn kinh phí hạn hẹp nên việc đầu tư khởi công xây dựng mới các công trình của huyện Hoàng Su Phì gặp nhiều khó khăn. UBND tỉnh sẽ xem xét việc đầu tư xây dựng công trình trên để sớm được đưa vào sử dụng phục vụ nhân dân.
9. UBND tỉnh đã giao cho UBND các huyện đầu tư các dự án hồ chứa nước vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 để tiếp tục đầu tư thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025. Xác định nhu cầu đầu tư xây dựng hồ chứa nước sinh hoạt cho các thôn bản thuộc 04 huyện vùng cao để phục vụ nước sinh hoạt cho người dân, ổn định cuộc sống cho nhân dân là hết sức cần thiết. Khi Trung ương giao kế hoạch vốn từ các nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hôi vùng đồng bào dân tộc thiếu số sẽ ưu tiên bố trí vốn đầu tư dự án này để triển khai thực hiện.
10. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện huyện Quang Bình giao các phòng ban chuyên mônxây dựng kế hoạch đăng ký nhu cầu đầu tư theo các Chương trình nguồn vốn 135; Đề án 88; Đề án xây dựng NTM giai đoạn 2020-2025 và đồng thời tổng hợp tham mưu cho UBND huyện Quang Bình cho chủ trương đầu tư theo thứ tự ưu tiên.
11. Trường PTDTBT Tiểu học Hố Quáng Phìn được xây dựng từ lâu, hiện đã xuống cấp, không đáp ứng đủ nhu cầu dạy và học của giáo viên, học sinh trên địa bàn xã. Vì vậy, việc đầu tư xây mới Trường PTDTBT Tiểu học Hố Quáng Phìn là rất cần thiết. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Đồng Văn đưa công trình vào danh mục công trình khởi công mới của chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2022-2025 trên địa bàn huyện Đồng Văn.
12. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT giao Trungtâm nước sinh hoạt và VSMT nông thôn tổ chức kiểm tra thực tế tình trạnghoạt động của công trình. Trung tâm nước sinh hoạt và VSMT nông thôn đã cùng với đơn vị thicông, UBND xã Việt Vinh và Tổ quản lý công trình thống nhất các vị trí cần sửa chữa, khắc phục các tồn tại, hư hỏng của công trình theo ý kiến kiến nghị của cử tri. Ngày 28/4/2022 đã tiến hành bàn giao các vị trí được sửa chữa, khắc phụccho UBND xã và Tổ quản lý công trình của xã thực hiện công tác quản lý vận hành công trình theo quy định. Hiện nay công trình đã vận hành cấp nước được trên toàn tuyến
Nhằm phát huy hiệu quả, bền vững của công trình đã được đầu tư, UBND tỉnh đã đề nghị Thường trực UBND huyện chỉ đạo UBND xã tăng cường trách nhiệm trongquản lý vận hành công trình, chỉ đạo Tổ quản lý công trình tại xã làm tốt công tác quản lý, bảo vệ công trình, tăng cường tuyên truyền vận động người dân không tự ý tháo gỡ đồng hồ đo nước cũng như cắt ống gây hư hỏng, mất nước trong hệ thống công trình. Thống nhất việc thu tiền sử dụng nước của người sửdụng, từ đó nâng cao trách nhiệm quản lý vận hành công trình cũng như việc giữ gìn và bảo vệ công trình của người dân.
13. Theo báo cáo số 171/BC-UBND ngày 23/3/2022 của UBND huyện Quang Bình thì hiện nay xã Xuân Giang chưa có Đồ án quy hoạch đô thị; chưa xác định được các tiêu chí đã đạt, các tiêu chí chưa đạt cần phấn đấu hoàn thành và nguồn lực để thực hiện các tiêu chí phấn đấu trở thành đô thị loại V.UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Quang Bình triển khai thực hiện lập quy hoạch xây dựng đô thị loại 5 của xã Xuân Giang. Sau khi đồ án quy hoạch được phê duyệt, UBND huyện Quang Bình chủ động cân đối các nguồn kinh phí theo phân cấp quản lý và lồng ghép nguồn vốn các Chương trình mục tiêu quốc gia để tổ chức thực hiện các tiêu chí còn phải phấn đấu để đạt đô thị loại V.
1. Đề Nghị UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường công tác quản lý giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ sản xuất của người dân, hiện nay giá trên thị trường còn cao (cử tri thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc).
2. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đề nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT sớm triển khai xây dựng 01 trạm cấp nước tập trung tại huyện Mèo Vạc với công suất thiết kế khoảng 2.500 m3/ngày.đêm cung cấp nước sinh hoạt cho khoảng 4.880 hộ dân thị trấn Mèo Vạc và xã Pả Vi huyện Mèo Vạc (cử tri thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc)
3. Hiện nay, do tình hình dịch bệnh Covid-19 nên người dân không tìm được đầu ra cho đàn bò, trong khi đó thương lái miền xuôi trả giá thấp, không đảm bảo chi phí chăn nuôi, đã ảnh hưởng đến thu nhập và cuộc sống của các hộ dân chăn nuôi Bò của huyện. Đề nghị UBND tỉnh và các sở ngành quan tâm, xúc tiến tìm đầu ra cho ngành chăn nuôi (cử tri các xã, thị trấn huyện Mèo Vạc).
1. Hiện nay, do tác động của đại dịch Covid-19 và xung đột giữa Nga – Ukraina; vì vậy giá nguyên vật liệu sản xuất phân bón, đặc biệt là giá xăng dầu tăng rất cao nên dẫn tới cước phí vận chuyển tăng làm ảnhhưởng lớn đến giá phân bón và vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc quản lý và điều hành giá thuộc thẩm quyền của Trung ương; tuy nhiên UBND tỉnh đãchỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các ngành liên quan kiểm tra, giám sát thị trường phân bón, các cơ sở buôn bán trên địa bàn tỉnh theo quy định, cụ thể:
- Phối hợp với Cục Quản lý thị trường tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh phân bón,thuốc bảo vệ thực vật, yêu cầu niêm yết giá công khai và không để xảy ra tình trạng bán hàng giả, hàng kém chất lượng và tình trạng đầu cơ, tích trữ, găm hàng, đẩy giá lên cao, góp phần ổn định thị trường vật tư nông nghiệp.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có văn bản số 169/SNN-TTBVTN ngày 16/02/2022 đề nghị UBND các huyện, thành phố chỉ đạocác đơn vị chuyên môn thực hiện đào tạo, tập huấn, tuyên truyền cho nông dân sử dụng các loại phân bón hữu cơ thay thế một phần phân bón hóa học nhằm giảm một phần chi phí trong sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất, tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ phù hợp, hiệu quả để áp dụng tại địaphương hướng tới phát triển nền nông nghiệp hữu cơ bền vững, đồng thời tuyên truyền người nông dân sản xuất nông nghiệp hạn chế tối đa việc sử dụng các hóa chất gây độc hại cho cây trồng và môi trường.
2. Dự án Xây dựng các công trình cấp, trữ nước vùng Lục Khu tỉnh CaoBằng, vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang và huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu thuộc nguồn vốn Ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 do Bộ Nông nghiệp vàPTNT quản lý. Dự án dự kiến đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Hà Giang 01trạm cấp nước tập trung tại huyện Mèo Vạc có công suất thiết kế khoảng 2.500m3/ngày đêm, cung cấp cấp nước sinh hoạt cho khoảng 4.880 hộ dân (phù hợp với kiến nghị của cử tri huyện Mèo Vạc). Hiện nay, dự án đã có chủ trương đầu tư tại Quyết định số 3271/QĐ-BNN-KH ngày 22/7/2021 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Đến nay, dự án đã tổ chức thực hiện khảo sát, thiết kế. Đang hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi và các nội dung liên quan đến công tác đầu tư xây dựng, cụ thể: đang tổ chức lấy ý kiến các đơn vị liên quancủa Bộ và địa phương, tiếp tục hoàn thiện trình Bộ Nông nghiệp và PTNT phêduyệt dự án, quyết định đầu tư. Thời gian dự kiến khởi công dự án trong năm2023.
3. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Công Thương phối hợp với các huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, Xín Mần, Hoàng Su Phì tiến hành rà soát, thống kê và cung cấp thông tin các đơn vị chăn nuôi bò được cấp chỉ dẫn địa lý, để phục vụ cho công tác xúc tiến, tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở đăng ký nhu cầu tiêu thụ của các huyện, Sở Công Thương ban hành văn bản số 564/SCT-QLTM ngày 17/5/2022 gửi Vụ Thị trường trong nước, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT) và Sở Công Thương các tỉnh, thành phố đề nghị kết nối với các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm trong nước để hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, trong đó có sản phẩm bò của tỉnh. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở Công Thương đẩy mạnh kết nối tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chương trình xúc tiến thương mại năm 2022 đã được phê duyệt.
Đồng thời, hiện nay việc xuất khẩu gia súc theo hình thức tiểu ngạch (trao đổi cư dân biên giới) sang thị trường Trung Quốc được kiểm soát chặt chẽ, do vậy không thực hiện được. Đề nghị các địa phương cần đánh giá lại việc chăn nuôi đại gia súc cho phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và khuyến khích chế biến sâu các sản phẩm từ gia súc. Bên cạnh đó, để các sản phẩm gia súc tươi sống tham gia vào các chuỗi chế biến thực phẩm công nghiệp, cơ sở giết mổ công nghiệp cần phải thay đổi tư duy và phương thức chăn nuôi để có quy chuẩn thực phẩm an toàn và giám sát chặt chẽ quy trình chăn nuôi (có xuất xứ rõ ràng và truy xuất được nguồn gốc sản phẩm).
UBND tỉnh Hà Giang trả lời ý kiến, kiến nghị của củ tri sau kỳ họp thứ Nhất Quốc hội khóa XV và sau kỳ họp thứ Hai HĐND tỉnh khóa XVIII, nhiệm kỳ 2021 – 2026
Câu hỏi Trả lời
Đầu tư Trạm phát sóng viễn thông cho thôn Sơn Nam, xã Hương Sơn để phục vụ nhu cầu trong đời sống của nhân dân, vì hiện nay thôn chưa có sóng điện thoại . Có ý kiến với đơn vị kinh doanh lắp đặt Trạm thu, phát sóng di động để Nhân dân các thôn Đăng Vai, Khó Cho, Phìn Chải A, Phìn Chải B của xã Vần Chải được sử dụng sóng điện thoại di động
 
(1) Giải pháp tối ưu mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ
a)Mạng Viettel: Không thực hiện được điều chỉnh vùng phủ trạm xung quanh do vướng núi cao, địa hình hiểm trở.Đẩy nhanh xây dựng phát sóng trạm HGG0233-12 xử lý sóng tại 04 thôn thuộc xã Vần Chải huyện Đồng Văn. Chưa có giải pháp đối với thôn Sơn Nam, xã Hương Sơn huyện Quang Bình.
b) Mạng Vinaphone: Thực hiện các giải pháp điều chỉnh góc phương vị, tăng công suất các trạm 2G/3G/4G trong khu vực. Đối với dịch vụ băng rộng cố định, hiện đã có hạ tầng đến xã nhưng khách hàng tại các thôn chưa có nhu cầu sử dụng.
(2) Thực trạng mạng lưới và kết quả đo kiểm chất lượng dịch vụ
a) Mạng Viettel: Hạ tầng mạng lưới. Hiện chỉ có 02 trạm BTS (trạm 2G/3G/4G) tại trung tâm xã Hương Sơn và trung tâm xã Vần Chải, 05 thôn theo kiến nghị chưa có trạm phát sóng; chưa có dịch vụ cố định băng rộng.
Về chất lượng dịch vụ:
+ Tại thôn Sơn Nam, xã Hương Sơn, huyện Quang Bình: Không có sóng 2G/3G/4G, không có dịch vụ băng rộng cố định.
+ Tại 04 thôn thuộc xã Vần Chải huyện Đồng Văn: thu được sóng 2G kém, 3G rất kém, không thu được sóng 4G.
Đánh giá: Chất lượng sóng cải thiện không đáng kể, tỷ lệ vùng phủ chỉ đạt 13,5% tăng 3,5% so với trước khi điều chỉnh.
b) Mạng Vinaphone: Hạ tầng mạng lưới. Tại xã Hương Sơn, huyện Quang Bình hiện tại có 02 trạm G900/U900 (QBH010M_HGG); Tại xã Vần Chải, huyện Đồng Văn hiện tại có 03 trạm G900/U900/LTE (DVN031M_HGG). Cả 02 xã đều đã được cung cấp các dịch vụ băng rộng cố định đến trung tâm xã, chưa có dịch vụ đến thôn.
- Chất lượng dịch vụ:
+ Tại thôn Sơn Nam, xã Hương Sơn, huyện Quang Bình: có mức thu sóng 2G/3G yếu, mức thu 4G không có.
+ Tại 04 thôn (Đăng Vai, Khó Cho, Phìn Chải A, Phìn Chải B) xã Vần Chải, huyện Đồng Văn đều không thu được sóng 2G, có sóng 3G và sóng 4G rất kém.
Đánh giá: Tỷ lệ phủ sóng tại thôn Sơn Nam xã Hương Sơn huyện Quang Bình đạt 60%, chất lượng dịch vụ kém. Tỷ lệ phủ sóng tại 04 thôn thuộc xã Vần Chải, huyện Đồng Văn có chất lượng dịch vụ kém.
(3) Đánh giá chung chất lượng sóng di động: Hạ tầng mạng lưới có 07 trạm thu phát sóng (Viettel 02 trạm; Vinaphone 05 trạm). Tỷ lệ phủ sóng tại thôn Sơn Nam đạt 60%, chất lượng dịch vụ kém. 04 thôn thuộc xã Vần Chải gần như không có sóng, chất lượng dịch vụ kém.
Tại thôn Sơn Nam chỉ thu được sóng 2G/3G của nhà mạng Vinaphone cung cấp tuy nhiên mức thu sóng rất kém và không thu được sóng 4G.
Tại 04 thôn xã Vần Chải chỉ thu được sóng 2G của nhà mạng Viettel (riêng Phìn Chải B không có sóng 2G) và sóng 3G của nhà mạng Vinaphone, sóng 4G của nhà mạng Vinaphone rất kém, không thu được sóng 4G của nhà mạng Viettel.
(4) Phương án bổ sung trạm phát sóng:
- Viettel Hà Giang đã có Kế hoạch triển khai xây dựng trạm phát sóng HGG0233-12 để phủ sóng 3G, 4G đối với 04 thôn (Đăng Vai, Khó Cho, Phìn Chải A, Phìn Chải B) xã Vần Chải, huyện Đồng Văn. Thời gian dự kiến hoàn thành trong tháng 3 năm 2022; Chưa có giải pháp phủ sóng thôn Sơn Nam xã Hương Sơn, huyện Quang Bình.
- Viễn thông Hà Giang: Chưa có giải pháp phủ sóng tại các thôn theo kiến nghị do hiệu quả đầu tư kém.
- Sở Thông tin và Truyền thông: Đã ban văn bản số 982/STTTT-BCVT ngày 04/10/2021 đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông giao cho Tập đoàn Viettel, VNPT hỗ trợ triển khai hạ tầng mạng lưới viễn thông phủ sóng đến các thôn trắng sóng 3G, 4G theo Chương trình viễn thông công ích giai đoạn 2021 - 2025.
Đề nghị có cơ chế đặc thù hỗ trợ các xã sau khi công nhận xã Nông thôn mới, không còn được hưởng các chế độ chính sách như: bảo hiểm y tế, giáo dục...
 

Ủy ban dân tộc Trung ương đã ban hành quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 19/9/2021 về phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025.

Theo đó, các xã đã đạt chuẩn NTM có thôn vùng III được phê duyệt tại quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 19/9/2021 của Ủy ban dân tộc Trung ương vẫn được hưởng các chế độ như bảo hiểm y tế, học sinh ở bán trú theo quy định. Đề nghị các địa phươngđẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến người dân, nhất là các chủ trương, chính sách liên quan đến chế độ, chính sách của người dân hiện nay, để người dân hiểu và thực hiện như: Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014; Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ Quy định chính sách Hỗ trợ học sinh và Trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Nghị định số 57/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ Quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người; Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025.

Đề nghị UBND tỉnh xem xét tăng thời gian, định mức vốn vay theo Nghị quyết số 58/2020/NQ-HĐND, ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh Hà Giang về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền vững cây cam sành từ 03 năm lên 05 năm, số vốn vay từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ và mở rộng cho đối tượng không phải hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn để cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ
 
Để đưa ra thời gian vay vốn tại Nghị Quyết số 58/2020/NQ-HĐND, ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh Hà Giang. Cơ quan tham mưu ban hành chính sách đã căn cứ vào chu kỳ sinh trưởng và phát triển của cây trồng được hộ gia đình sử dụng để thực hiện cải tạo vườn tạp (chủ yếu là các cây trồng ngắn ngày, các giống rau, đậu các loại... có thời gian sinh trưởng và phát triển từ 3 – 6 tháng) và chu kỳ sinh trưởng và phát triển cây cam sành thời kỳ kinh doanh (1 năm) để đưa ra thời gian vay vốn hợp lý nhất (30 tháng đối với cải tạo vườn tạp và 36 tháng đối với cây cam sành thời kỳ kinh doanh), nhằm giúp các tổ chức, cá nhân (đặc biệt là các hộ nghèo, cận nghèo) có thời gian sản xuất tạo ra vốn để tiếp tục phát triển sản xuất cho các vụ tới và vừa có kinh phí để trả lại vốn vay ngân sách nhà nước sau 30 và 36 tháng; đồng thời để có nguồn vốn quay vòng vốn vay cho các tổ chức, cá nhân khác.

Về định mức vay vốn tại Nghị Quyết số 58/2020/NQ-HĐND, ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh Hà Giang. Cơ quan tham mưu ban hành chính sách đã căn cứ vào quy trình sản xuất, định mức đầu tư cho các cây trồng, quy mô sản xuất và nguồn ngân sách của tỉnh… để tính toán đưa ra định mức vay phù hợp; đồng thời đây cũng là chính sách hỗ trợ một phần để các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt chương trình cải tạo vườn tạp và nâng cao chất lượng cây cam sành Hà Giang, (cụ thể: từ 10 đến 30 triệu đồng/hộ/diện tích từ 100 – 300m2 thực hiện cải tạo vườn tạp và 60 triệu đồng/ha diện tích cây cam sành thời kỳ kinh doanh).

Bên cạnh đó, việc triển khai Nghị quyết chưa được 1 năm, vì vậy đề nghị tăng thời gian, định mức vốn vay theo Nghị quyết số 58/2020/NQ-HĐND, ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh Hà Giang từ “03 năm lên 05 năm, số vốn vay từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ” chưa đủ cơ sở xem xét giải quyết; sau khi sơ kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết sẽ xem xét cụ thể.

Về việc mở rộng đối tượng vay vốn: Tại nội dung Đề án và Nghị quyết của Tỉnh luôn khuyến khích, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các đối tượng khác (không phải hộ nghèo, hộ cận nghèo) thực hiện cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ. Các hộ này không được hưởng chính sách theo Nghị quyết 58/2020/NQ-HĐND nhưng vẫn được vay vốn từ các tổ chức tín dụngvà thụ hưởng các chính sách hiện hành khác để phát triển kinh tế vườn hộ. Qua thực tế triển khai, đã có 1.473 hộ không thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo triển khai cải tạo vườn tạp.
Đề nghị UBND tỉnh cho kéo dài thời gian thực hiện Quyết định 32/2020/QĐ-UBND, ngày 25/11/2020 của UBND tỉnh Hà Giang đến hết ngày 30/6/2022, đồng thời xem xét ban hành chính sách hỗ trợ, chế độ nghỉ trước tuổi đối với số công chức xã dôi dư sau khi hết thời hạn sắp xếp, nhưng không thể bố trí sắp xếp được
 
Thực hiện quy định chung của Chính phủ thống nhất áp dụng trên toàn quốc về số lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính Phủ), UBND tỉnh đã triển khai thực hiện tại Quyết định số 32/2020/QĐ-UBND ngày 25/12/2021 với lộ trình, thời hạn hoàn thành việc bố trí, sắp xếp số lượng dôi dư trên địa bàn tỉnh trước ngày 31/12/2021 (thời gian thực hiện 01 năm).

Quá trình thực hiện, UBND tỉnh đã chỉ đạo cấp uỷ đảng, chính quyền cấp huyện xây dựng phương án triển khai nghiêm túc, linh hoạt với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Qua đánh giá kết quả 01 năm thực hiện tại Hội nghị trực tuyến với UBND các huyện, thành phố tổ chức ngày 18/11/2021, sau 01 năm thực hiện đã sắp xếp bố trí được 321/499 người, đạt 64,3 %, còn dôi dư 178 người. Trong đó thành phố Hà Giang đã hoàn thành và còn 10 huyện chưa hoàn thành.

Sau khi xem xét, đánh giá kết quả thực hiện, để việc bố trí, sắp xếp đảm bảo lộ trình phù hợp, đúng quy định, vừa đạt mục tiêu tinh giản biên chế, vừa đảm bảo ổn định đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; trên cơ sở cam kết của các huyện, UBND tỉnh đã thống nhất, báo cáo Thường trực Tỉnh uỷ, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh cho chủ trương kéo dài thời gian, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã dôi dư đến ngày 31/12/2022 (thêm 01 năm).


Trong thời gian tới, UBND tỉnh giao Sở Nội vụ chủ trì, nghiên cứu, tham mưu cho UBND tỉnh các nhiệm vụ, giải pháp tổng thể để đảm bảo hoàn thành dứt điểm việc sắp xếp, bố trí đối với 178 cán bộ, công chức cấp xã dôi dư còn lại của 10 huyện, hoàn thành trước ngày 31/12/2022 (nếu được Thường trực Tỉnh ủy đồng ý chủ trương).
Bố trí 02 chức danh công chức cấp xã phụ trách 02 lĩnh vực: (1) Văn hóa - Xã hội (2) Lao động, Thương binh, Xã hội, vì khối lượng công việc nhiều, 01 người không thể đảm nhiệm hết công việc
 
Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 32/2020/QĐ-UBND đảm bảo theo đúng quy định hiện hành; theo đó, mỗi xã loại II được bố trí 20 cán bộ, công chức cấp xã, trong đó công chức được bố trí tối đa 08 người. Do đó, không còn biên chế để bố trí thêm 01 công chức Văn hóa - Xã hội (đảm nhận nhiệm vụ Lao động - Thương binh và Xã hội) theo kiến nghị của cử tri. Như vậy, nội dung nêu trên hiện nay tỉnh Hà Giang đang thực hiện đảm bảo theo đúng quy định hiện hành của pháp luật.
Bố trí chức danh Chỉ huy phó quân sự cấp xã là công chức để đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh tại địa phương
 
Theo Khoản 1 Điều 20 Luật Dân quân tự vệ năm 2019; Nghị định số 72/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định: Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp xã là chức danh người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh Hà Giang đã cụ thể hoá nội dung nêu trên, trong đó quy định: Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự là người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Như vậy, nội dung nêu trên hiện nay tỉnh Hà Giang đang thực hiện đảm bảo theo đúng quy định hiện hành của pháp luật.
Đề nghị UBND trình HĐND tỉnh nâng mức phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã và nâng mức bồi dưỡng đối với người trực tiếp tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố tại Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh, vì hiện nay mức hỗ trợ thấp không đảm bảo cho việc hoạt động; đồng thời xem xét, đơn giản hóa các thủ tục hành chính tại Hướng dẫn số 792/HD-UBND ngày 26/4/2021 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết nêu trên (về chứng từ chi bồi dưỡng tại Mục VII của hướng dẫn) để thanh toán bồi dưỡng đối với những người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố
 
Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ, UBND tỉnh đã trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 quy định số lượng, chức danh đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; mức bồi dưỡng, mức phụ cấp đối với người trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang (viết tắt là Nghị quyết số 40).

Quá trình triển khai Nghị quyết, việc thực hiện thủ tục thanh toán bồi dưỡng đối với những người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố còn khó khăn, vướng mắc. Tiếp thu ý kiến của cử tri, trên cơ sở nghiên cứu, đề xuất  Sở, ngành chuyên môn, ngày 20/10/2021 UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 4199/UBND-NCPC ngày 20/10/2021 sửa đổi, bổ sung hướng dẫn thủ tục thanh toán đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện tại cơ sở.

Đối với mức phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã, mức khoán Trung ương là 193,459 tỷ đồng; kinh phí thực hiện Nghị quyết 40 là 257,926 tỷ đồng, cao hơn mức khoán của Trung ương l64,467 tỷ đồng; So với các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng như: Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên thì tỉnh Hà Giang quy định mức bồi dưỡng người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố cao hơn mặt bằng chung các tỉnh.

Tuy nhiên, do thay đổi chính sách của Trung ương, người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố có sự thay đổi, không còn được quy định là chức danh người người hoạt động không chuyên trách, không được hưởng phụ cấp hàng tháng như trước đây (hưởng mức phụ cấp với hệ số 0,2 - 0,4, khoảng 298-596 nghìn đồng), mà chỉ được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố với mức khoán tối đa trung bình 200-250 nghìn đồng/người/tháng.

UBND tỉnh đã giao các Sở, ngành chuyên môn nghiên cứu phương án sửa đổi Nghị quyết 40 theo hướng đảm bảo thu thập cho người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố. Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách tỉnh rất khó khăn, tiếp tục phải trung nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch Covid-19 và đảm bảo an sinh xã hội, UBND tỉnh đã báo cáo, trình Thường trực Tỉnh ủy, Thường trực HĐND tỉnh thống nhất chủ trương tạm thời chưa điều chỉnh, sửa đổi, nâng mức chi bồi dưỡng Nghị quyết 40 của HĐND tỉnh.
UBND tỉnh Hà Giang trả lời kết quả giải quyết, trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri sau kỳ họp thứ Nhất và trước kỳ họp thứ Hai HĐND tỉnh khóa XVIII nhiệm kỳ 2021-2026
Câu hỏi Trả lời
Đề nghị tỉnh có cơ chế chính sách đặc thù hỗ trợ học sinh bán trú có hộ khẩu ở những địa bàn vừa được công nhận thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và xã hoàn thành nông thôn mới nhưng còn nhiều khó khăn tiếp tục được thụ hưởng chế độ hỗ trợ học tập, bảo hiểm y tế. Vì trên thực tế, điều kiện kinh tế - xã hội của những thôn, xã này vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; việc các em học sinh bán trú không tiếp tục được hưởng chế độ hỗ trợ sẽ tác động đến việc học tập của các em, ảnh hưởng đến tỷ lệ duy trì sỹ số học sinh và tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần, nguy cơ học sinh bỏ học thuộc đối tượng này là lớn
 
Thực hiện Quyết định số 861/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc Phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, UBND tỉnh chưa xem xét việc ban hành cơ chế, chính sách của tỉnh về việc hỗ trợ học sinh bán trú có hộ khẩu ở những địa bàn vừa được công nhận thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và xã hoàn thành nông thôn mới.

Đề nghị chính quyền các cấp ở địa phương, các tổ chức chính trị xã hội, cácnhà trường thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục, vận động cha mẹ học sinh quan tâm chăm lo cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn, nhà xa trường được ăn ở bán trú tại trường để đảm bảo thời gian học tập. Tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân xác định rõ trách nhiệm không trông chờ, ỷ lại vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Đề nghị tỉnh khẩn trương khảo sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh và Hướng dẫn số 792/HD-UBND ngày 26/4/2021 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh để xác định những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi thực hiện tại cơ sở. Để có cơ sở xem xét điều chỉnh, nâng mức hỗ trợ cho một số đối tượng của nghị quyết và sửa đổi bổ sung Hướng dẫn số 792/HD-UBND ngày 26/4/2021 của UBND tỉnh cho phù hợp
 
UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn và UBND các huyện, thành phố rà soát kết quả tổ chức thực hiện Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh tại cơ sở và đã báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kết quả thực hiện (tại Báo cáo số 464-BC/BCSĐ ngày 27/10/2021 của Ban cán sự đảng UBND tỉnh). Quá trình triển khai Nghị quyết, việc thực hiện thủ tục thanh toán bồi dưỡng đối với những người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố còn khó khăn, vướng mắc. Tiếp thu ý kiến cử tri, trên cơ sở nghiên cứu, đề xuất của Sở, ngành chuyên môn, ngày 20/10/2021 UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 4199/UBND-NCPC ngày 20/10/2021 sửa đổi, bổ sung hướng dẫn thủ tục thanh toán đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện tại cơ sở.

Về đề nghị xem xét điều chỉnh để nâng mức hỗ trợ cho một số đối tượng:

Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ, UBND tỉnh đã trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 quy định số lượng, chức danh đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; mức bồi dưỡng, mức phụ cấp đối với người trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang (viết tắt là Nghị quyết số 40).

Đối với mức phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã, mức khoán Trung ương là 193,459 tỷ đồng; kinh phí thực hiện Nghị quyết 40 là 257,926 tỷ đồng, cao hơn mức khoán của Trung ương l64,467 tỷ đồng; So với các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng như: Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên thì tỉnh Hà Giang quy định mức bồi dưỡng người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố cao hơn mặt bằng chung các tỉnh. Tuy nhiên, do thay đổi chính sách của Trung ương, người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố có sự thay đổi, không còn được quy định là chức danh người người hoạt động không chuyên trách, không được hưởng phụ cấp hàng tháng như trước đây (hưởng mức phụ cấp với hệ số 0,2 - 0,4, khoảng 298-596 nghìn đồng), mà chỉ được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố với mức khoán tối đa trung bình 200-250 nghìn đồng/người/tháng.

UBND tỉnh đã giao các Sở, ngành chuyên môn nghiên cứu phương án sửa đổi Nghị quyết 40 theo hướng đảm bảo thu thập cho người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố. Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách tỉnh rất khó khăn, tiếp tục phải trung nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch Covid-19 và đảm bảo an sinh xã hội, UBND tỉnh đã báo cáo, trình Thường trực Tỉnh ủy, Thường trực HĐND tỉnh thống nhất chủ trương tạm thời chưa điều chỉnh, sửa đổi, nâng mức chi bồi dưỡng Nghị quyết 40 của HĐND tỉnh.
UBND tỉnh Hà Giang: Trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri trước và sau kỳ họp thứ Bảy HĐND tỉnh khóa XVIII, nhiệm kỳ 2021 - 2026
Câu hỏi Trả lời
1. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường liên kết các xã Kim Thạch - Kim Linh - Linh Hồ - Ngọc Linh (cử tri xã Linh Hồ, Kim Linh, Kim Thạch, Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên).
2.Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường từ thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang đi xã Xuân Giang, huyện Quang Bình tại địa phận đi qua khu vực trung tâm xã Yên Hà, tuyến đường (đã được đầu tư thi công 1km đường bê tông từ năm 2017) (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
3. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng Hồ treo tại thôn Há Hơ, xã Sà Phìn (Cử tri xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn).
4. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng cầu cứng thôn Lũng Cáng, xã Thuận Hòa. Vì hiện nay, trên địa bàn thôn Lũng Cáng, xã Thuận Hòa có 01 cây cầu sắt phục vụ cho người dân của 02 thôn (nối với km 16 QL 4C) nhưng đã bị hư hỏng nặng (cử tri xã Thuận Hòa, huyện Vị Xuyên).
5. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng tuyến kênh mương từ đội 2 đến đội 5 thôn Tràng Chải, xã Pờ Ly Ngài, có chiều dài 2,6 km (cử tri xã Pờ Ly Ngài, huyện Hoàng Su Phì); Tuyến đường bê tông từ xã Nàng Đôn đi xã Hồ Thầu dài 15km, hiện nay là nền đất (cử tri xã Nàng Đôn, huyện Hoàng Su Phì).
6. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng hoàn thiện hệ thống kè chống sạt lở bờ sông Lô đoạn từ Trường Cao đẳng Sư Phạm đến suối Cầu Mè; kè bờ Tây Sông Lô đoạn qua Tổ 1 phường Quang Trung (Cử tri phường Nguyễn Trãi, Quang Trung, thành phố Hà Giang).
7. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống rãnh thoát nước trên tuyến đường lên Trận địa Đài quan sát phòng không để khắc phục tình trạng mỗi khi mưa lớn, nước và đất, đá tràn vào khu vực dân cư bên dưới đường (Cử tri phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang).
8. Đề nghị tỉnh quan tâm chất lượng xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung (hồ treo) trên địa bàn các huyện và bố trí kinh phí duy tu, sửa chữa các công trình hư hỏng để phát huy hiệu quả đầu tư các công trình (Cử tri phường Minh Khai, thành phố Hà Giang).
9. Đề nghị UBND tỉnh xem xét sửa chữa Hồ treo Sủa Cán Tỷ và Hồ treo Pờ Chúa Lủng, xã Cán Tỷ. Hiện nay, 02 hồ này đã được đưa vào sử dụng 10 năm, nên có một số hạng mục bị hư hỏng làm ảnh hưởng đến khả năng trữ nước và chất lượng nguồn nước, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân (cử tri xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
10. Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo các sở, ngành và các chủ đầu tư: Đối với các công trình xây dựng cầu, làm đường mà liên quan đến các dự án khai thác, vận chuyển khoáng sản thì không sử dụng ngân sách Nhà nước để đầu tư, không bố trí vào kế hoạch đầu tư công mà phải yêu cầu các đơn vị khai thác khoáng sản tại địa bàn có trách nhiệm đầu tư cầu, đường bê tông hoặc trải nhựa đảm bảo cho Nhân dân nơi chịu ảnh hưởng do có hoạt động khai thác đi lại thuận lợi. Vì theo quy định nếu Nhà nước đầu tư làm đường bê tông liên thôn, liên xã kết cấu đường bê tông rộng 3,4m, dày 16-18 cm không đáp ứng được trọng tải của các xe chở quặng nên đường sẽ bị hư hỏng và xuống cấp rất nhanh gây khó khăn cho việc đi lại của Nhân dân và lãng phí ngân sách Nhà nước (cử tri xã Giáp Trung, huyện Bắc Mê).
11. Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo chủ đầu tư (Công ty TNHH Tiến Đạt) thi công Thủy điện Sông Chảy 3 chi trả hết các khoản kinh phí về bồi thường giải phóng mặt bằng cho nhân dân bị ảnh hưởng từ 2019 đến nay. Đồng thời, quan tâm, xem xét sửa chữa lại cầu treo Na Pê, xã Sán Sả Hồ để đảm bảo an toàn (thay ván cầu bằng sắt), vì cầu treo năm 2021 Công ty TNHH Tiến Đạt xây dựng (để thay thế cầu treo Na Pê đã bị ngập khi xây dựng thủy điện) chưa bàn giao cho xã, chất lượng cầu treo không đảm bảo gây nguy hiểm cho người dân khi đi lại (độ rung lắc cao, ván cầu làm bằng gỗ tạp, mỏng đã cong vênh...) (cử tri xã Sán Sả Hồ, huyện Hoàng Su Phì).
12. Đề nghị tiếp tục hỗ trợ xi măng cho Nhân dân làm đường vào các nhóm hộ, đường liên thôn, đường nội đồng (cử tri xã Sính Lủng, xã Tà Phìn, huyện Đồng Văn).
13. Đề nghị chỉ đạo chủ đầu tư xây dựng tuyến đường Phùng Hưng trên địa bàn phường Ngọc Hà và Trần Phú, thành phố Hà Giang đẩy nhanh tiến độ thi công đảm bảo tiến độ dự án (cử tri phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang).
14. Đề nghị tỉnh chỉ đạo các doanh nghiệp khai thác khoáng sản đầu tư làm tuyến đường giao thông từ trung tâm xã Minh Sơn đi qua 4 thôn: Bình Ba, Nà Sáng, Khuổi Kẹn, Lũng Vầy (khoảng 15 km) để nhân dân đi lại được thuận tiện. Vì hiện nay, tuyến đường này có các doanh nghiệp khai thác quặng lưu thông nên xả bụi, ảnh hưởng đến giao thông, sức khỏe của nhân dân (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
15. Đề nghị quan tâm hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ sở làm việc của Công an xã Tân Tiến để đáp ứng yêu cầu công tác của lực lượng Công an xã hiện nay (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
16. Đề nghị tỉnh tiếp tục thi công tuyến đường Quốc lộ 4 thông ra xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
17. Đề nghị tỉnh xem xét hỗ trợ làm đường bê tông từ đường quốc lộ 4 đi thôn Tân Tiến I , thôn Pắc Ngàm đến cầu Thác Mật của xã Đản Ván, có tổng chiều dài trên 4 km, rộng 3,5m phục vụ nhu cầu đi lại của 63 hộ dân đang sinh sống. Xem xét đầu tư xây dựng tuyến đường từ Km3 lên hội trường thôn Nậm Than với chiều dài 3km (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
18. Đề nghị rà soát, xác định các điểm nguy cơ cao để lắp đặt hộ lan đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông, vì hiện nay tuyến đường từ huyện Quản Bạ và xã Cao Mã Pờ có một số điểm mất an toàn cho người tham gia giao thông, nhất là những thời điểm có sương mù làm khuất tầm nhìn (điển hình đoạn đường giáp gianh giữa xã Tùng Vài và Cao Mã Pờ) và đã xảy ra những vụ tai nạn làm chết người (cử tri xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ).
19. Đề nghị xem xét đầu tư xây dựng hệ thống rãnh dọc thoát nước hai bên tuyến đường từ xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên đi xã Đồng Tâm, huyện Bắc Quang. Vì hiện nay, mới chỉ được đầu tư tuyến đường từ xã Đồng Tâm, huyện Bắc Quang đến xã Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên bằng nguồn vốn ADB (cử tri xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên).
1.Tuyến đường từ xã Kim Thạch - Kim Linh - Linh Hồ - Ngọc Linh nằm trên tuyếnđường huyện ĐH.05 (Hà Giang - Kim Thạch - Kim Linh - Linh Hồ) và ĐH.08 (Km21 -Ngọc Linh - Linh Hồ - Phú Linh) với tổng chiều dài là 21,3km được đầu tư xây dựnggiai đoạn năm 2006 - 2010. Hiện nay, một số khu vực mặt đường đã xuống cấp, ảnh hưởng đến việc đi lại của nhân dân. UBND tỉnh đã chỉ đạo BQL dự án ĐTXD công trình giao thông làm việc cụ thể với các cơ quan thuộc Bộ Giao thông vận tải, để đề xuất đầutư tuyến đường trong Dự án quản lý tài sản đường địa phương, sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới tại văn bản 2290/UBND-KTTH, ngày 02/8/2022. Trong thời gian tới, sau khi huy động nguồn lực thực hiện UBND tỉnh sẽ chỉ đạo các đơn vị khẩn trương triển khai sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường trên đảm bảo phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
2. Dự án khôi phục, cải tạo tuyến đường Việt Quang – Xuân Giang huyện Quang Bình được thi công từ tháng 2/2020 đến tháng 5/2021, đã hoàn thành nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Đối với đoạn tuyến qua trung tâm xã Yên Hà (đường BTXM dài 01 km được xây dựng từ năm 2017) đã bị hư hỏng, xuống cấp, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quang Bình khảo sát, xây dựng kế hoạch nâng cấp, sửa chữa và thực hiện lồng ghép các nguồn vốn (như: nguồn vốn sự nghiệp giao thông hàng năm, nguồn vốn xây dựngnông thôn mới, nguồn vốn hợp pháp khác) để sớm đầu tư, sửa chữa tuyến đường, phục vụ nhu cầu của nhân dân.
3. Xác định nhu cầu đầu tư xây dựng Hồ treo chứa nước tại các xã của 4 huyện vùng cao núi đá để cung cấp nước sinh hoạt, ổn định cuộc sống cho nhân dân là hết sức cần thiết. UBND tỉnh đã có Quyết định số 1952/QĐ-UBND ngày 27/9/2012 phê duyệt Đề án đầu tư hệ thống hồ chứa nước sinh hoạt tại 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc, tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2012-2020. Tuy nhiên, nhu cầu để đầu tư là rất lớn trong khi nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 hạn chế nên chưa cân đối được nguồn lực để triển khai thực hiện Đề án. UBND Tỉnh sẽ báo cáo các Bộ, ngành Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ tiếp tục đầu tư các Hồ treo chứa nước tại các xã của 4 huyện vùng cao núi đá,bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
4. Hiện nay cây cầu sắt trên địa bàn thôn Lũng Cáng, xã Thuận Hòa phục vụ cho người dân của 02 thôn nối với QL.4C, tại Km16, nhưng đã bị hư hỏng, xuống cấp do thời gian sử dụng và bị ảnh hưởng bởi thiên tai, nhu cầu đầu tư xây dựng cầu tại vị trí trên của cử tri là chính đáng. Tuy nhiên, nhu cầu để đầu tư là rất lớn trong khi nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 hạn chế nên chưa thể cân đối để triển khai thực hiện. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tham mưu, bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại.
 5. Đối với đề nghị đầu tư xây dựng tuyến kênh mương từ đội 2 đến đội 5 thôn Tràng Chải xã Pờ Ly Ngài, có chiều dài 2,6km: UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì khảo sát thực tế và nhận thấy nhu cầu đầu tư là rất chính đáng. Tuy nhiên, hiện nay nguồn vốn giai đoạn 2021-2025 của tỉnh đang tập trung đầu tư cho các công trình có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội liên vùng, nguồn vốn đầu tư của huyện đã phân bổ hết cho các công trình cấp thiết và lồng ghép để thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia,trong đó trọng tâm là Chương trình Xây dựng NTM nên chưa thể bố trí xây dựng trong giai đoạn 2021-2025. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì xem xét, bố trí vốn để đầu tư để đầu tư sau năm 2025.
Đối với đề nghị đầu tư xây dựng tuyến đường bê tông từ xã Nàng Đôn đi xã Hồ Thầu dài 15km, hiện nay là nền đất: Qua kiểm tra khảo sát, tuyến đường nêu trên đi từ thôn Hoàng Lao Chải xã Nàng Đôn qua địa phận xã Thu Tà huyện Xín Mần và đến đỉnh Chiêu Lầu Thi, có tổng chiều dài là 15km (03 km nằm trên địa phận huyện Hoàng Su Phì và 12km nằm trên địa phận huyện Xín Mần). UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì và huyện Xín Mần tiếp thu ý kiến của cử tri, khảo sát thực tế và đề xuất đầu tư theo quy định.
6. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư của tỉnh rất khó khăn và phụ thuộc nhiều vào ngân sách Trung ương, trong khi nhu cầu đầu tư xây dựng của các địa phương rất lớn. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND Thành phố Hà Giang kiểm tra, có giải pháp để đảm bảo an toàn kè chống sạt lở bờ sông Lô đoạn từ Trường Cao đẳng Sư Phạm đến suối Cầu Mè; kè bờ Tây Sông Lô đoạn qua Tổ 1 phường Quang Trung. Đồng thời, UBND tỉnh tiếp tục đề nghị Trung ương hỗ trợ kinh phí từ nguồn NSTW để đầu tư xây dựng các công trình nêu trên, đảm bảo phát huy hiệu quả dự án và mỹ quan đô thị trên địa bàn thành phố.
7. UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 247/QĐ-UBND ngày 24/08/2022 về việc phê duyệt điều chỉnh Dự án xây dựng tuyến đường giao thông lên trận địa và đài quan sát phòng không tại núi Mỏ Neo, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang; đồng thời chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức triển khai thực hiện để khắc phục tình trạng nước và đất, đá tràn vào khu vực dân cư mỗi khi mưa lớn.
8. Công tác quản lý chất lượng công trình được quy định cụ thể tại Nghị định số 06/2021/NĐ-CP ngày 26/01/2021 của Chính Phủ. UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ban ngành, các chủ đầu tư tăng cường công tác quản lý chất lượng, thi công xây dựng, đảm bảo thực hiện đầy đủ trình tự các bước theo quy định, chú trọng việc quản lý, khai thác và bảo vệ các công trình sau đầu tư.
UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 50/KH-UBND ngày 18/02/2020 Kế hoạch sửa chữa các công trình Hồ chứa nước sinh hoạt 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc giai đoạn năm 2020-2021 và các năm tiếp theo. Đến nay, Tỉnh đã bố trí kinh phí đầu tư thực hiện sửa chữa 10/33 công trình theo kế hoạch (có 02 công trình hoàn thành, 08 công trình đang thi công). Tuy nhiên, với nhu cầu đầu tư lớn, trong khi nguồn kinh phí còn hạn chế nên tỉnh mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của địa phương. UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các huyện, thành phố hàng năm bố trí kinh phí để thực hiện sửa chữa, duy tu các công trình hư hỏng thuộc diện cấp bách, đảm bảo nguồn nước phục vụ cho người dân.
9. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ khảo sát, lập dự toán và xây dựng phương án khắc phục, sửa chữaHồ treo Sủa Cán Tỷ và Hồ treo Pờ Chúa Lủng, xã Cán Tỷ. Dự kiến triển khai thực hiện dự án đầu năm 2023 để đảm bảo nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân.
10. Căn cứ quy định tại Điều 5 Luật Khoáng sản; Điều 15,16 Nghị định 158/2016/NĐ-CPngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khoáng sản; Điều 8 Nghị định số 164/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ quy định về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản và Nghị quyết số 28/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh. Trên cơ sở kết quả kiểm tra thực tế, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Bắc Mê chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các doanh nghiệp (có hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn xã Minh Sơn) lập phương án đề xuất thực hiện nâng cấp, cải tạo các tuyến đường với hình thức nhà nước và doanhnghiệp cùng làm để làm cơ sở triển khai thực hiện đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân.
11. Về nội dung chỉ đạo chủ đầu tư chi trả hết các khoản kinh phí về bồi thường giải phóng mặt bằng cho nhân dân bị ảnh hưởng từ 2019 đến nay: Đến nay, Công ty TNHH Tiến Đạt đã phối hợp với các đơn vị có liên quan giải quyết xong vướng mắc về bồi thường GPMB với người dân và đã thực hiện chi trả hết số kinh phí về bồi thường GPMB cho cho người dân.
Về nội dung sửa chữa lại cầu treo Na Pê, xã Sán Sả Hồ: UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành của tỉnh và UBND huyện Hoàng Su Phì làm việc, yêu cầu Công ty TNHH Tiến Đạt có trách nhiệm sửa chữa lại các công trình hạ tầng, trong đó có Cầu treo Na Pê (xã Sán Sả Hồ), thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022. UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các ngành và UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra, đôn đốc Công ty TNHH Tiến Đạt triển khai thực hiện.
12. Ngày 17/02/2022, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 221/QĐ-UBND về phê duyệt dự toán kinh phí mua xi măng hỗ trợ thực hiện bê tông hóa đường giao thông nông thôn tại các xã thuộc các huyện, thành phố năm 2022; trong đó số lượng xi măng hỗ trợ cho huyện Đồng Văn là 1.569 tấn (UBND huyện Đồng Văn đã tập trung thực hiện làm đường bê tông tại 02 xã Ma Lé và Lũng Phìn để hoàn thành tiêu chí số 02 (giao thông) và 08 thôn đạt chuẩn nông thôn mới). Đồng thời, ngày 25/7/2022 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1187/QĐ-UBND phân bổ, giao chi tiết nguồn vốn đầu tư phát triển thực hiện 03 Chương trình MTQG năm 2022 trên địa bàn huyện Đồng Văn với số tiền: 174.495 triệu đồng, để huyện Đồng Văn thực hiện các công trình, dự án (bao gồm, đường giao thông nông thôn) trên địa bàn các thôn, xã, huyện Đồng Văn. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Đồng Văn phối hợp với Văn phòng điều phối NTM tỉnh tổ chức khảo sát, hoàn thiện các thủ tục để tiếp tục thực hiện làm đường bê tông nông thôn tại các xã trên địa bàn trong đó có 02 xã (xã Sính Lủng, xã Tả Phìn).
13. Công trình xây dựng tuyến đường Phùng Hưng là một hạng mục thuộc Dự án “Chương trình phát triển các đô thị loại II (các đô thị xanh) – Tiểu dự án tại Hà Giang”, được khởi công xây dựng từ ngày 24/6/2021. Đến nay tiến độ thi công đạt khoảng 45%. Tiến độ thi công còn chậm do gặp vướng mắc về gói thầu Giám sát thi công và hỗ trợ thực hiện dự án (HG-CS01); trên tuyến đường còn 07 hộ gia đình chưa nhận tiền bồi thường giải phóng mặt bằng; cuối tuyến còn 07 cột điện chưa được di dời. UBND tỉnh đã chỉ đạo Chủ đầu tư phối hợp với các đơn vị có liên quan tháo gỡ các vướng mắc về gói thầu Giám sát thi công và hỗ trợ thực hiện dự án (HG-CS01); hoàn tất công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và di dời công trình hạ tầng kỹ thuật điện để tiếp tục thi công công trình.
14. Ngày 18/10/2022, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra hiện trạng tuyến đường giao thông từ trung tâm xã Minh Sơn đi qua 4 thôn: Bình Ba, Nà Sáng, Khuổi Kẹn, Lũng Vầy; tổ chức làm việc với Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông, Công ty cổ phần thép An Khang, Công ty cổ phần khoáng sản Minh Sơn. Kết quả kiểm tra thực tế, trao đổi, thảo luận và ý kiến của các bên cho thấy: Hiện trạng tuyến đường là đường đất, giải đá cấp phối đã xuống cấp, đi lại khó khăn. Do vậy, ý kiến của cử tri xã Minh Sơn đối với việc nâng cấp, cải tạo tuyến đường là hoàn toàn chính đángTrong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo giao UBND huyện Bắc Mê chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các doanh nghiệp(có hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn xã Minh Sơn) lập phương án đề xuất thực hiệncải tạo sửa chữa tuyến đường với hình thức nhà nước và doanh nghiệp cùng làm để làm cơ sở triển khai thực hiện. 
15. Tại Nghị quyết số 36/NQ-HĐND ngày 12/10/2021 của HĐND tỉnh phêduyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 có giao kế hoạch vốn hỗ trợ đầu tư trụ sở công an xã, phường, thị trấn trên địa bàn các huyện, thành phố với số tiền 75 tỷ đồng, trong đó: năm 2022 đã bố trí kế hoạch vốn hỗ trợ đầu tư các trụ sở công an xã, phường, thị trấn 25 tỷ đồng; số vốn còn lại là 50 tỷ đồng. Trên cơ sở số vốn còn lại để hỗ trợ đầu tư trụ sở công an xã, phường, thị trấnthuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan chủ trì tham mưu phân bổ kế hoạch vốn đầu tư) thống nhất với Côngan tỉnh rà soát các trụ sở Công an xã cần thiết đầu tư, báo cáo UBND tỉnh để đưavào kế hoạch đầu tư năm 2023 (trong đó có trụ sở công an xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì). 
16. Quốc lộ 4 nối Hà Giang - Lào Cai (giai đoạn I) được phê duyệt đầu tư nâng cấp các đoạn Km238 - Km258, Km271 - Km299, Km339 - Km414  và triển khai thi công từ năm 2008, tuy nhiên đến tháng 02/2011 Chính phủ thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội vì vậy Dự án mới hoàn thành được 06 đoạn với tổng chiều dài 72 km. Đối với 21 km (Km368 - Km 388) qua đèo Tây Côn Lĩnh chưa được đầu tư, khái toán dự án đoạn tuyến khoảng 600 tỷ đồng. Ban Quản lý dự án 6 (Ban QLDA 6) đã tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét danh mục bố trí vốn đầu tư các dự án. Thời gian qua lãnh đạo Đảng, nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ đã rất quan tâm, nhưng vì điều kiền nguồn vốn chưa cho phép, nên đoạn tuyến này chưa bố trí được vốn để triển khai đầu tư.
UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở Giao thông Vận tải phối hợp với BQLDA 6 đề xuất và kiến nghị Bộ Giao thông vận tải rà soát các nguồn để ưu tiên đầu tư hoàn thành tuyến đường trên phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng cho tỉnh.
17. Đối với nội dung đề nghị làm đường bê tông từ đường quốc lộ 4 đi thôn TânTiến I, thôn Pắc Ngàm đến cầu Thác Mật của xã Đản Ván:UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì UBND huyện Hoàng Su Phìrà soát và bố trí vốn đưa vào kế hoạch đầu tư trong năm 2022 (tại Quyết định số 5118/QĐ-UBND ngày 23/9/2022 về việc phân bổ, giao chi tiết kế hoạch vốn đầu tư phát triển thực hiện các Chương trình MTQG trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì năm 2022). Hiện nay, UBND huyện Hoàng Su Phì đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan tổ chức khảo sát, lập hồ sơ xây dựng theo quy định.
Đối với nội dung đề nghị đầu tư xây dựng tuyến đường từ Km3 lên hội trường thôn Nậm Than: UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì rà soát, cân đối nguồn lực để tập trung đầu tư tuyến đường phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
18. Tuyến đường từ Tùng Vài - Cao Mã Pờ (ĐH.03) có tổng chiều dài tuyến 9km, mặt đường láng nhựa. Tuyến đường chủ yếu là đèo dốc, có vực sâu nguy hiểm. Tổng chiều dài các đoạn trên tuyến đường cần xây dựng hộ lan để đảm bảo an toàn cho các phương tiện và người tham gia giao thông là 1,510 km, việc xây dựng hộ lan là cần thiết, kiến nghị của cử tri là chính đáng và thiết thực. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ có phương án xây dựng tường hộ lan bằng đá hộc gắn vữa xi măng ở đoạnvực sâu nguy hiểm nhất (chiều dài 0,3km), thời gian thực hiện trong tháng 11/2022; Đồng thời chỉ đạo các đơn vị chuyên môn nghiên cứu, tham mưu bố trí kinh phí để xây dựng hộ lan mềm (hộ lan tôn sóng) với chiều dài 1,21 km đảm bảo an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông.
19. Hiện nay, Sở Kế hoạch và Đầu tư (Chủ đầu tư công trình) đã hoàn thành 12,56 km kênh theo hồ sơ thiết kế dự án đã được phê duyệt; Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Chủ đầu tư rà soát các đoạn tuyến cần thiết bổ sung rãnh dọc thoát nước đảm bảo vận hành công trình bền vững và đảm bảo thoát nước, chống ngập úng phục vụ nhân dân sinh sống dọc hai bên tuyến đường. Dự kiến sẽ triển khai thi công các hạng mục rãnh bổ sung trong quý 1/2023, đảm bảo thoát nước trước mùa mưa.
1. Đề nghị tỉnh quan tâm, chỉ đạo các sở, ngành có liên quan đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân (cử tri huyện Vị Xuyên).
2. Đề nghị tỉnh quy định giảm diện tích đất nông nghiệp được phép tách thửa chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở để các hộ gia đình có điều kiện diện tích phù hợp được tách thửa, chuyển mục đích sử dụng đất khi tách hộ gia đình (cử tri phường Ngọc Hà, phường Trần Phú, thành phố Hà Giang).
3. Đề nghị tỉnh xem xét rút ngắn thời gian đăng ký chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ 1 lần/năm xuống 2 lần/năm để kịp thời chuyển mục đất cho các hộ dân xây dựng nhà ở, phát triển đô thị (cử tri phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang).
4. Đề nghị chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc Sở Tài nguyên và Môi trường sớm hoàn thành dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Kế hoạch số 30/KH-STNMT ngày 31/5/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường về việc triển khai thực hiện đăng ký lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bổ sung) trên địa bàn huyện Bắc Mê. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí để thực hiện cập nhật xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đối với những Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo Kế hoạch số 30/KH-STNMT và chỉ đạo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chủ trì phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND thị trấn, xã của huyện Bắc Mê thực hiện cấp phát Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân (cử tri huyện Bắc Mê).
5. Đề nghị chỉ đạo ngành chuyên môn thực hiện kiểm tra, đánh giá hiện trạng môi trường của xã Minh Sơn để có giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Vì hiện nay, một số bể xả thải của Công ty An Thông rò rỉ, tràn ra môi trường; khu vực tập kết quặng của Công ty An Khang lắp đặt hệ thống máy móc sơ chế tại đầu nguồn nước của thôn Nà Sáng, xã Minh Sơn gây ô nhiễm môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của nhân dân (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
6. Đề nghị tỉnh xem xét chỉ đạo rà soát để đưa diện tích đất của các hộ gia đình, hiện đang sử dụng ổn định, lâu dài ra khỏi diện tích đất quy hoạch ba loại rừng. Vì hiện nay trên địa bàn xã Minh Sơn còn 150 hộ gia đình đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích trùng với diện tích đất quy hoạch ba loại rừng (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
7. Đề nghị tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn kiểm tra lại các vị trí đã cắm mốc giới rừng đặc dụng. Vì hiện nay, một số vị trí đặt mốc giới rừng trùng vào diện tích đất sản xuất của người dân (cử tri xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê).
8. Đề nghị xem xét điều chỉnh giảm diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất nông nghiệp tại Khoản 4, Điều 4, Quyết định 142/2021/QĐ-UBND ngày 08/11/2021 của UBND tỉnh (thửa đất phải đảm bảo diện tích tối thiểu: đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất trồng cây lâu năm, đất nông nghiệp khác đối với khu vực đô thị là 300m2; đối với khu vực nông thôn là 500m2 ). Theo quy định như hiện nay diện tích tối thiểu được tách thửa lớn, khó thực hiện (cử tri xã Phố Là, huyện Đồng Văn).
9. Đề nghị bố trí quỹ đất trong thành phố Hà Giang, khu vực thuận lợi, không quá xa khu trung tâm thành phố và đầu tư xây dựng khu vui chơi cho trẻ em (cử tri phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang).
1. Ngày 24/8/2020, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 1463/QĐ-UBND về việc điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của Quyết định 504/QĐ-UBND ngày 03/4/2012 của UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Kế hoạch số 1227/KH-STNMT ngày 19/5/2022 triển khai thực hiện Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính
và cơ sở dữ liệu quản lý địa chính tỉnh Hà Giang năm 2022. Theo Kế hoạch, để đảm bảo thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trài, dự án được thực hiện theo hình thức cuốn chiếu liên tục từ khâu đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sửdụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất đến xây dựng cơsở dữ liệu địa chính. Kế hoạch năm 2022 hoàn thành việc cấp mới bổ sung, cấpđổi chứng nhận quyền sử dụng đất 15 xã (bao gồm huyện Vị Xuyên; Hoàng SuPhì). Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các đơn vị liên quan khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ theo lộ trình đã đề ra.
2. Thực hiện quy định tại Khoản 23 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 42/2021/QĐ-UBND ngày 08/11/2022 quy định cụ thể điều kiện tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất. Việc ban hành quyết định nêu trên tạo sự đồng bộ trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai; đồng thời, cũng hạn chế việc tách nhỏ thửa đất nông nghiệp, ngăn chặn tình trạng “chia nhỏ” thửa đất nông nghiệp và xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp.Về ý kiến của cử tri, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp thu ý kiến để nghiên cứu đưa vào đề xuất tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2013, nhằm tạo kiện thuận lợi cho người dân.
3. Theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 9 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai được sửa đổi bởi Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ. Hàng năm UBND các huyện, thành phố lập kế hoạch sử dụng đất các nội dung theo Điều 43, 44, 45, 46 Thông tư số 01/2021/TT-BTNMT ngày 12/4/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định kỹ thuật việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đây là cơ sở cho việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất trong năm kế hoạch.
Tuy nhiên để tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện cho các tổ chức, hộ gia đình trong quá trình thực hiện; tại điểm c khoản 3 Điều 7 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 được sửa đổi bởi Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ, nếu các hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất thì làm đơn đăng ký gửi về UBND cấp xã để tổng hợp gửi Phòng Tài nguyên và Môi trường để trình UBND cấp huyện báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường và trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết địnhcập nhật vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện để làm cơ sở tổ chức thực hiện. Quy định:" Quý III hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp huyện gửi hồ sơ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của năm sau đến Sở Tài nguyên và Môi trường để tổ chức thẩm định….Căn cứ hồ sơ kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được hoàn thiện và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường trình UBND tỉnh phê duyệt thực hiện xong trước ngày 31 tháng 12".
4. Huyện Bắc Mê đã tổ chức đo đạc bản đồ địa chính và cấp giấy CNQSD đất cho các hộ gia đình, cá nhân xong từ năm 2016. Trong quá trình thực hiện đăng ký cấp giấy chứng nhận còn một số hộ chưa tham gia thực hiện do vắng mặt và một số nguyên nhân khách quan khác; UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường ban hành Kế hoạch số 30/KH-STNMT ngày 31/5/2017 về việc triển khai thực hiện đăng ký lập hồ sơ cấp giấy CNQSD đất (bổ sung) trên địa bàn huyện Bắc Mê, Quang Bình, Quản Bạ. Kết quả thực hiện trên địa bàn huyện Bắc Mê như sau: Đã hoàn thành cấp bổ sung 2.196 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Minh Ngọc 636 Giấy, Lạc Nông 496 Giấy, Giáp Trung 267 Giấy, Thị trấn Yên Phú 797 Giấy); đang thẩm định 3.253 Giấy (xã Phiêng Luông 228 Giấy, Yên Phong 252 Giấy, Phú Nam 230 Giấy, Yên Cường 768 Giấy, Yên Định 752 Giấy, Đường Âm 880 Giấy, Đường Hồng 143 Giấy); Đối với 02 xã Thượng Tân và Minh Sơn: Hồ sơ đăng ký cấp giấy 02 xã này Văn phòng đăng ký đất đai đã thẩm định xong, hiện đang đang hoàn thiện và in Giấy chứng nhận. Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh tiến độ thực hiện, dự kiến hoàn thành Kế hoạch số 30/KH-STNMT trước ngày 31/12/2022.
Về hỗ trợ kinh phí để thực hiện cập nhật xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đối với những Giấy CNQSD đất đã được cấp theo Kế hoạch số 30/KH-STNMT. UBND tỉnh giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các sở ngành liên quan tham mưu lập kinh phí cho nhiệm vụ, thẩm định trình UBND tỉnh xem phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật trên cơ sở nguồn lực sẵn có của tỉnh.
5. UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành thực hiện kiểm tra thực tế. Ngày 18/10/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành kiểm tra tại công trình hồ chứa nước thải và bùn thải quặng đuôi của Công ty cổ phần đầu tư Khoáng sản An Thông tại nhà máy tinh quặng sắt Minh Sơn, thôn Bình Ba, xã Minh Sơn; kiểm tra hiện trạng tuyển quặng, công trình xử lý nước thải và bùn thải quặng đuôi của Công ty cổ phần thép An Khang tại thôn Nà Sáng, xã Minh Sơn. Kết quả kiểm tra thực tế cho thấy:
Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông đã chấp hành nghiêm túc công tác bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động của Nhà máy chế biến tinh quặng sắt Minh Sơn. Tại thời điểm kiểm tra hồ chứa nước thải và bùn thải của Nhà máy không có rò rỉ nước thải ra ngoài môi trường; tuy nhiên, khi trời mưa lớn có nguy cơ chảy tràn nước thải ra ngoài môi trường.
Công ty cổ phần thép An Khang đã lắp đặt máy móc, thiết bị tuyển và có hoạt động sơ chế, tuyển quặng tại khu vực thôn Nà Sáng (khu vực thực hiện giáp với thân quặng II, VI) khi chưa thực hiện các thủ tục về thiết kế xây dựng mỏ, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định.
Căn cứ kết quả kiểm tra, đoàn kiểm tra đã yêu cầu các công ty: Đối với Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông: Yêu cầu phải vận hành thường xuyên công trình xử lý nước thải và các công trình bảo vệ môi trường của Nhà máy chế biến tinh quặng sắt Minh Sơn, đảm bảo khi trời mưa lớn không chảy tràn nước thải từ hồ chứa nước thải ra ngoài môi trường.
Đối với Công ty cổ phần thép An Khang: Yêu cầu Công ty cổ phần thép An Khang thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Trong đó yêu cầu Công ty chấp hành nghiêm Thông báo số 148/TB-UBND ngày 29/8/2022 của UBND tỉnh Hà Giang; Dừng ngay hoạt động sơ tuyển, tuyển quặng tại khu vực thôn Nà Sáng (khu vực hiện nay Công ty đã lắp đặt máy móc, thiết bị tuyển); Thực hiện việc nạo vét khối lượng bùn thải phát sinh do quá trình sơ tuyển, tuyển quặng của Công ty đảm bảo không chảy ra môi trường khi có mưa; Chỉ được phép đi vào xây dựng và hoạt động khi đã hoàn thiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật (thủ tục thiết kế xây dựng sau thiết kế cơ sở, thủ tục về môi trường….).
6. Để khắc phục những tồn tại nêu trên trên địa bàn toàn tỉnh, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT, UBND các huyện thành phố rà soát, đề xuất điều chỉnh quy hoạch ba loại rừng (tích hợp vào quy hoạch tỉnh) tại Văn bản số 959/UBND-KTTH ngày 08/4/2022 và giao Sở Nông nghiệp và PTNT xây dựng bản đồ ba loại rừng theo kết quả đề xuất điều chỉnh của các huyện tại Văn bản số 2094/UBND-KTTH ngày 15/7/2022.
Hiện nay, Sở Nông nghiệp và PTNT đang phối hợp với UBND các huyện, thành phố tiếp tục rà soát, để lập bản đồ ba loại rừng với quan điểm sẽ cân đối đưa ra ngoài quy hoạch đối với những diện tích đất người dân đang sử dụng ổn định lâu dài với mục đích ngoài lâm nghiệp. Tuy nhiên việc điều chỉnh quy hoạch đất lâm nghiệp và ba loại rừng phải đảm bảo chỉ tiêu phân bổ đất đai theo Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 09/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phân bổ chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021-2025.
Đề nghị cấp ủy, chính quyền các huyện, thành phố quan tâm chỉ đạo, phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT triển khai tổ chức thực hiện, đảm bảo không phát sinh những vấn đề vướng mắc sau khi Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
7. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra hiện trạng thực tế các vị trí cắm mốc giới rừng đặc dụng trên địa bàn xã Minh Sơn. Kết quả, các vị trí mốc giới được đặt tại các vị trí đúng ranh giới  sử dụng đất và bản đồ ranh giới sử dụng đất của BQL rừng đặc dụng Du Già và đã được các bên ký xác nhận vào bản mô tả ranh giới mốc thửa đất ngày 16/6/2021. Các đơn vị liên quan đã họp bàn và trực tiếp giải thích làm rõ để cử tri hiểu và nhất trí.
8. Thực hiện quy định tại Khoản 23 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, ngày 08/11/2022 UBND tỉnh đã Quyết định số 42/2021/QĐ-UBND quy định cụ thể điều kiện tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất. Việc ban hành quyết định nêu trên tạo sự đồng bộ trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai; đồng thời, cũng hạn chế việc tách nhỏ thửa đất nông nghiệp, ngăn chặn tình trạng “chia nhỏ” thửa đất nông nghiệp và xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp. Về ý kiến của cử tri, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp thu ý kiến để nghiên cứu đưa vào đề xuất tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2013, nhằm tạo kiện thuận lợi cho người dân.
9. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND thành phố Hà Giang rà soát quỹ đất trên địa bàn thành phố và đề xuất vị trí đầu tư xây dựng khu vui chơi cho trẻ em để đưa vào quy hoạch phân khu 2 trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Sau khi Quy hoạch phân khu được phê duyệt UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo UBND thành phố triển khai thực hiện các bước tiếp theo để đầu tư xây dựngkhu vui chơi cho trẻ em theo ý kiến, kiến nghị của cử tri phường Nguyễn Trãi.
1. Đề nghị tỉnh chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án và thực hiện đầu tư các công trình điện, viễn thông liên lạc; chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông xem xét nâng cấp và lắp đặt các trạm BTS tại các thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; khảo sát tại các khu vực chưa mạng internet hoặc có nhưng chất lượng không đảm bảo để người dân có điều kiện được tiếp cận thông tin đáp ứng theo đúng chủ trương chuyển đổi số, giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Hà Giang (cử tri huyện Vị Xuyên, Bắc Mê; xã Yên Hà, huyện Quang Bình; xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
2. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét, chỉ đạo ngành công thương, điện lực kiểm tra, rà soát lại việc bán điện qua công tơ tổng dẫn đến giá điện cao tại một số thôn, bản thuộc xã Sán Sả Hồ làm cho người dân rất khó khăn (cử tri xã Sán Sả Hồ, huyện Hoàng Su Phì).
3.Đề nghị UBND tỉnh quan tâm, xem xét lắp đặt trạm biến áp và nâng cấp đường dây kéo điện tại thôn Lùng Vái, hiện trạng cột điện gỗ, đường dây người dân trong thôn tự đầu tư từ kinh phí hỗ trợ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và đóng góp tự nguyện của người dân. Tuy nhiên, quá trình sử dụng không đảm bảo chất lượng nguồn điện (điện yếu), đường dây trùng, cột điện bằng gỗ không đảm bảo an toàn, dùng công tơ điện chung nên giá điện cao (cử tri xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
4. Đề nghị tỉnh quan tâm có lộ trình đầu tư, cải tạo lưới điện, nâng cấp trạm hạ thế, nâng công suất đảm bảo phục vụ nhu cầu của người dân (cử tri huyện Vị Xuyên).
5. Đề nghị xem xét đầu tư thêm một trạm biến áp và đường dây điện 0,4 KV đi đến các cụm khu dân cư của 02 thôn Khuổi Phạt, Khuổi Ít, xã Vĩnh Hảo vì hiện nay, thôn Khuổi Phạt và thôn Khuổi Ít đang dùng chung một trạm biến áp và chưa có đường dây điện dẫn đến một số cụm dân cư trong thôn (cử tri xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang).
6. Đề nghị đầu tư xây dựng Trạm Biến áp kéo điện lưới Quốc gia đến 9 khu dân cư trên địa bàn 9 thôn của xã Quang Minh (Pắc Há, Tân Lâm, Thống Nhất, thôn Nái, Pù Ngọm, Minh Tiến, Tân Thành, Minh Tân, thôn Chúa). Hiện tại nhiều hộ dân trên địa bàn 9 thôn nêu trên phải sử dụng Công tơ chung nên điện yếu và giá thành cao, khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt của người dân (cử tri xã Quang Minh, huyện Bắc Quang).
7. Đề nghị tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng xem xét đưa vào sử dụng công trình điện ở thôn 5, 6 xã Túng Sán đã được đầu tư gần 2 năm nhưng đến nay chưa đóng điện để phục vụ sinh hoạt và sản xuất của người dân (cử tri xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì).
1. Tính đến hết ngày 31/12/2021, Trên địa bàn toàn tỉnh còn 154 thôn chưa được phủ sóngdi động (chiếm 7,5%); 1.352 thôn chưa có cáp quang internet (chiếm 66,37%). Các thôn chưa được phủ sóng di động, chưa có cáp quang internet chủ yếu là các thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, dân cư thưa thớt. Để phát triển hạ tầng viễn thông, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 227/KH-UBND ngày 17/8/2021 về việc phát triển hạ tầng viễn thông phục vụ chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó đã đề ra mục tiêu đến năm 2025 đầu tư mới 601 trạm thu phát sóng di động và phát triển mới internet băng rộng tới 931 thôn, bản trên toàn tỉnh. Ngoài ra, UBND tỉnh đã có đề xuất gửi Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các Tập đoàn viễn thông có chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng viễn thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang theo Chương trình viễn thông công ích (tại Văn bản số 868/UBND-KTTH ngày 01/4/2022). Trong 10 tháng đầu năm 2022, tỉnh đã thực hiện phủ sóng di động được 74 thôn. 
Thực hiện Văn bản số 5563/BTTTT-CVT ngày 14/11/2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc tiếp tục rà soát, triển khai phủ sóng băng rộng di động cho các thôn chưa có sóng, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông, tiếp tục rà soát, lập danh sách bổ sung các thôn chưa có sóng di động gửi Bộ Thông tin và Truyền thông tổng hợp. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục để nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các Tập đoàn viễn thông có chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng viễn thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đồng thời chỉ đạo ngành Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với các đơn vị viễn thông phát triển hạ tầng viễn thông theo Kế hoạch đã đề ra. 
2. Hiện nay trên địa bàn xã Sán Sả Hồ có 09 thôn với tổng số 431 hộ dân. Có 15 công tơ bán tổng cho 26 hộ sử dụng điện dùng chung (trong đó: có 01 công tơ đang bán tổng trên đường dây 0,4kV sau TBA Lủng Phạc được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đang được giao cho Điện lực tạm thời quản lý vận hành; 14 công tơ hiện đang bán tổng sau đường dây 0,4kV là tài sản của Điện lực). Qua kiểm tra, nhân dân mong muốn được bán lẻ điện trực tiếp đến các hộ dân sử dụng điện tại thôn Lủng Phạc, Lủng Dăm thuộc xã Sán Sả Hồ.
Đối với 01 công tơ dùng chung sau TBA Lủng Phạc do UBND huyện làm chủ đầu tư, hiện nay đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục bàn giao từ vốn ngân sách nhà nước sang ngành điện quản lý theo Quyết định 41/2017/QĐ-TTg ngày 15/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi hoàn thành, Ngành điện sẽ tiến hành lập phương án bản lẻ đến từng hộ dân sử dụng điện.
Đối 14 công tơ hiện đang bán tổng sau đường dây 0,4kV là tài sản của Điện lực tại thôn Lủng Phạc, Lủng Dăm thuộc xã Sán Sả Hồ. Do các hộ dân ở xa Trạm biến áp và ở cuối điểm các cột hạ thế, việc dùng chung dây dẫn nhỏ, đường dây dài nên gây tổn thất điện năng. Hiện tại do không có kinh phí để đầu tư dây dẫn riêng lẻ dẫn đến không thể dùng công tơ bán lẻ đến từng hộ dân. Trong thời gian tới, ngành Điện quan tâm hỗ trợ người dân đầu tư hệ thống dây dẫn và công tơ để thực hiện bán lẻ điện đến từng hộ dân.
Ủy ban nhân dân tỉnh giao Sở Công Thương tiếp tục kiểm tra, rà soát và tổng hợp các Hợp đồng mua bán điện đối với các hộ dân dùng chung công tơ tổng trên địa bàn tỉnh, báo cáo đề xuất với UBND tỉnh giải quyết đảm bảo công bằng và lợi ích của nhân dân, phù hợp với điều kiện thực tế, đồng thời đề nghị ngành Điện quan tâm hỗ trợ người dân đầu tư hệ thống dây dẫn và công tơ để thực hiện bán lẻ điện đến từng hộ dân.
3. Qua kiểm tra thực tế tình hình cấp điện tại thôn Lùng Váicó tổng số 100 hộ đã được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt 100%. Tuy nhiên đường dây sau công tơ dùng chung dài, cột gỗ, dây trùng, điện ápthấp.UBND huyện Quản Bạ đã rà soát, tổng hợp trình HĐND huyện Quản Bạ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-HĐND ngày 29/6/2022 của HĐND huyện phê duyệt chủ trương đầu tư danh mục các dự án, hạng mục, công trình sử dụng nguồn vốn đầu tư công thuộc cấp huyện quản lý năm 2022 (Bổ sung) và năm 2023: Công trình cấp điện thôn Lùng Vái xã Cán Tỷ với quy mô đường dây 35 kV, 01 trạm biến áp 100 kVA, đường dây 0,4 kV dài 3.500m; thời gian dự kiến xây dựng năm 2023-2024.
Trước mắt, để đảm bảo an toàn, chất lượng điện ổn định. UBND huyện Quản Bạ chỉ đạo phòng chuyên môn phối hợp Điện lực huyện cử cán bộ kỹ thuật tư vấn, trợ giúp, hướng dẫn các hộ dân thường xuyên duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế hệ thống sau công tơ đảm bảo kỹ thuật an toàn theo quy định.
4. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Vị Xuyên, Công ty Điện lực Hà Giang phối hợp với đơn vị có liên quan căn cứ vào Đồ án quy hoạch xây dựng vùng huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Gianggiai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; xây dựng lộ trình đầu tư cải tạo lưới điện, nâng cấp trạm hạ thế, nâng côngsuất đảm bảo phục vụ nhu cầu sử dụng điện của người dân trên địa bàn huyện Vị Xuyên giai đoạn 2022-2030. Theo đó, lộ trình đầu tư bao gồm: 33 công trình; năm 2022 đã triển khai thực hiện 06 công trình. Giai đoạn 2023-2030 sẽ tiếp tục đầu tư 27 công trình theo lộ trình đã xây dựng.
5. Qua kiểm tra, khảo sát tình hình thực tế về hạ tầng cấp điện tại thôn Khuổi Phạt và Khuổi Ít xã Vĩnh Hảo huyện Bắc Quang. Hiện nay, xã Vĩnh Hảo có tổng số 12 TBA với tổng dung lượng là1800 kVA. Hiện trạng lưới điện như sau: Thôn Khuổi Phạt có 02 TBA; thôn Khuổi Ít chưa có TBA nhưng đang sử dụng điện qua ĐZ 0.4 kVsau 02 TBA của thôn Khuổi Phạt. Về tình hình sử dụng điện, hiện cả hai thôn có 250 hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, đạt 100%. Tuy nhiên, một số nhóm hộ dùng chung công tơ và kéo dây sau công tơ dài từ 0,7 km đến 1,5 km, sử dụng dây dẫn tiết diện nhỏ, đã vận hành lâu năm gâymất an toàn điện, tổn thất điện năng cao. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu và đảm bảo sử dụng điện an toàn cho các hộ dân, tại thôn Khuổi Ít dự kiến đầu tư xây dựng 0.8 km ĐZ 35 kV; 01 TBAcông suất 250 kVA -35/0.4 kV và 02 km đường dây 0.4 kV sau TBA. UBND tỉnh đã chỉ đạo Công ty Điện lực thực hiện thay thế nâng tiết diện dây dẫn đường trục sau công tơ, thay thế cột gẫy hỏng không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để nâng cao chất lượng điện năng và an toàn trong việc sử dụng điện.
6. Quan kiểm tra, khảo sát tình hình thực tế về hạ tầng cấp điện tại Xã Quang Minh huyện Bắc Quang. Hiện nay trên địa bàn xã Quang Minh có tổng số 19 TBA với tổng dung lượng là 3750 kVA. Hiện trạng lưới điện tại các thôn như sau: Thôn Pắc Há có 03 TBA; thôn Tân Lâm chưa có TBA nhưng đang sử dụng điện qua ĐZ 0.4 kVsau TBA UB Quang Minh và TBA Bế Chiều; thôn Thống Nhất chưa có TBA nhưng đang sử dụng điện qua ĐZ 0.4kV sau TBA Bế Chiều và TBA Hoàng Văn Thụ; thôn Chúa có 01 TBA; tại thôn Minh Tiến có 01 TBA; thôn Tân Thành có 01 TBA; thôn Nái có 01 TBA. Về tình hình sử dụng điện, hiện các thôn đã có 100% số hộ dân được sử dụng điện từ lưới điện quốc gia. Tuy nhiên có nhiều nhóm hộ dùng chung công tơ và kéo dây sau công tơ dài từ 0,7 km đến 1,8 km, sử dụng dây dẫn tiết diện nhỏ, đã vận hành lâu năm gâymất an toàn điện, tổn thất điện năng cao. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu và đảm bảo sử dụng điện an toàn cho các hộ dân, dự kiến đầu tư xây dựng hệ thống cấp điện như sau: Tại thôn Nái: Xây dựng 0.5 km ĐZ 35 kV; 01 TBA công suất 180 kVA -35/0.4 kV và 02 km đường dây 0.4 kV sau TBA; Tại thôn Thống Nhất: Xây dựng 1.0 km ĐZ 35 kV; 01TBA công suất 180 kVA -35/0.4 kV và 02 km đường dây 0.4 kV sau TBA; Tại thôn Tân Lâm: Xây dựng 1.0 km ĐZ 35 kV; 01 TBAcông suất 180 kVA -35/0.4 kV và 1.5 km đường dây 0.4 kV sau TBA; Tại thôn Chúa: Xây dựng 0.5 km đường dây 0.4 kV sau TBA Thôn Chúa đang vận hành; Tại thôn Pắc Há và thôn Minh Tiến: Xây dựng 1.7 km (chia 03 nhánh) đường dây 0.4 kV sau các TBA TBA Pắc Há 2, Pắc Há 4, Pắc Há5 đang vận hành.
UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Công ty Điện lực thực hiện thay thế nâng tiết diện dây dẫn đường trục sau công tơ, thay thế cột gẫyhỏng không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để nâng cao chất lượng điện năng và antoàn trong việc sử dụng điện.
7.  Công trình Cấp điện cho thôn 5, thôn 6 xã Túng Sán - huyện Hoàng Su Phì được khởi công xây dựng từ tháng 3/ 2020 và hoàn thành vào tháng 12/2021. Tuy nhiên, công trình còn một số tồn tại chưa đủ điều kiện để đóng điện như: Phát sinh nhà xây dựng mới vi phạm hành lang lưới điện, việc lắp đặt một số thiết bị của trạm biến áp chưa đảm bảo yêu cầu, mưa lũ làm xói lở đất dẫn đến một số vị trí cột có nguy cơ đổ phải tiến hành di chuyển... UBND tỉnh đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án ĐTXD công trình Dân dụng và Công nghiệp (Chủ đầu tư công trình) khẩn trương khắc phục hoàn thành các tồn tại, vướng mắc của dự án và nghiêm thu, đấu nối, bàn giao đưa vào sử dụng trong tháng 11/2022.
1. Đề nghị tỉnh xem xét nghiên cứu có chính sách hỗ trợ bình ổn giá thức ăn chăn nuôi và phân bón. Hiện nay, thức ăn chăn nuôi và phân bón tăng giá mạnh đang gây khó khăn lớn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân (cử tri xã Lũng Cú, xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn; cử tri huyện Bắc Mê).
2. Đề nghị UBND tỉnh nghiên cứu xem xét trình HĐND tỉnh ban hành các cơ chế, chính sách để tiếp tục hỗ trợ về sản xuất nông nghiệp cho tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh (cử tri xã Bằng Lang, huyện Quang Bình).
3. Đề nghị UBND tỉnh kiểm tra hoạt động của công trình vườn ươm tại thôn Tân Chàng, xã Yên Hà (do Sở Nông nghiệp và PTNT quản lý) được đầu tư xây dựng từ năm 2012, hiện nay công trình đã xuống cấp nghiêm trọng, thời gian gần đây không hoạt động gây lãng phí tài sản của Nhà nước (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
4. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn sớm thực hiện việc giao đất, giao rừng cho nhân quản lý đối với diện tích đã thu hồi của Công ty lâm nghiệp Cầu Ham theo Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 02/7/2020 của UBND tỉnh về việc thu hồi đất của Công ty lâm nghiệp Cầu Ham giao cho UBND huyện Bắc Quang và UBND huyện Quang Bình quản lý điều chỉnh diện tích sử dụng đất Công ty lâm nghiệp Cầu Ham. Tuy nhiên, đến nay việc phối hợp của doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị có liên quan chưa tổ chức đi thực địa để bàn giao lại số diện tích đó (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
5. Đề nghị quan tâm sửa chữa, nâng cấp tuyến kênh mương của thôn Lùng Vi, xã Nà Khương (do Sở Nông nghiệp và PTNT làm chủ đầu tư) để phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu cho nhân dân của thôn, tuyến kênh có chiều dài 1,8km đã được đầu tư xây dựng từ năm 2010 nhưng đến nay đã bị hỏng, xuống cấp không sử dụng được (cử tri xã Nà Khương, huyện Quang Bình).
6. Đề nghị xem xét đầu tư xây dựng kè trước nhà lưu trú của học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Bản Nhùng, với chiều dài 63m, chiều cao 6m (cử tri xã Bản Nhùng, huyện Hoàng Su Phì).
7. Đề nghị tỉnh đầu tư xây dựng đập dâng nước (Sông Chảy) để tạo cảnh quan cho thị trấn phục vụ phát triển du lịch cho huyện (cử tri thị trấn Vinh Quang, huyện Hoàng Su Phì).
8. Đề nghị chỉ đạo chủ đầu tư là Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT kiểm tra công trình cấp nước sinh hoạt khu Trung tâm xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên mới được đầu tư đưa vào sử dụng nhưng hiện nay công trình không cấp được nước cho nhân dân (cử tri xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên).
1. Do diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, thị trường thức ăn chăn nuôi và phân bón thế giới và trong nước biến động lớn, nguyên nhân chính là do giá nguyên liệu đầu vào chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu, chi phí vận chuyển tăng cao dẫn đến giá một số loại thức ăn chăn nuôi và phân bón liên tục tăng thời gian qua.UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành chuyên môn:
Tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, yêu cầu niêm yết giá công khai và không để xảy ra tình trạng bán hàng giả, hàng kém chất lượng và tình trạng đầu cơ, tích trữ, găm hàng, đẩy giá lên cao, góp phần ổn định thị trường lương thực thức ăn gia súc, gia cầm và vật tư nông nghiệp;
Thực hiện đào tạo, tập huấn, tuyên truyền cho nông dân sử dụng cácloại phân bón hữu cơ thay thế một phần phân bón hóa học nhằm giảm một phần chi phí trong sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất, tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ phù hợp, hiệu quả để áp dụng tại địap hương hướng tới phát triển nền nông nghiệp hữu cơ bền vững, đồng thời tuyên truyền người nông dân sản xuất nông nghiệp hạn chế tối đa việc sử dụng các hóa chất gây độc hại cho cây trồng và môi trường.
Qua đó giá các mặt hàng lương thực thức ăn gia súc, gia cầm và vật tư phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đã dần ổn định, cụ thể: Giá thức ăn gia súc, gia cầm tăng 11,07% so với quý III/2021, tăng 6,14% so với tháng 12/2021; Phân bón tăng 23,13% so với quý III/2021, 5 tháng đầu năm 2022 so vớitháng 12/2021 tăng 3,68-5,26%, sau đó từ tháng 6/2022 đến nay giảm dần xuống từ2,7-5,5% và giữ ổn định ở mức 18.000đ/kg đối với phân Ure Hà Bắc, giá 7.000đ/kg đối với phân lân NPK 5.10.3 Văn Điển.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị có liên quan tập trung thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng tăng giá bất thường các mặt hàng thức ăn chăn nuôi và phân bón. Đồng thời hỗ trợ người nông dân phát triển sản xuất, chăn nuôi thuộc các Chương trình mục tiêu Quốc gia thông qua các dự án, mô hình phát triển sản xuất, kinh doanh cho các đối tượng là các hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ dân tộc thiểu số, người cócông với cách mạng, phụ nữ thuộc hộ nghèo.
2. Đối với cơ chế, chính sách của Trung ương: Hiện nay Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có các chính sách về hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho các tổ chức, cá nhân. Năm 2022, Chính phủ đã giao vốn và UBND tỉnh đã phân bổ vốn cho các địa phương để thực hiện.
 Đối với cơ chế, chính sách của tỉnh Hà Giang: Trong những năm qua UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành một số chính sách của địa phương hỗ trợ phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, gồm: (i) Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 19/7/2018 của HĐND tỉnh Phê duyệt chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Giang; (ii) Nghị quyết số 58/2020/NQ-HĐND ngày 9/12/2020 của HĐND tỉnh về chính sách đặc thù phát triển kinh tế vườn hộ và phát triển bền vững cây Cam sành trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025; (iii) Nghị quyết 19/2020/NQ-HĐND ngày 10/7/2020 của HĐND tỉnh quy định nội dung chi, mức hỗ trợ cho các hoạt động khuyến nông trên địa bàn tỉnh Hà Giang; (iv) Nghị quyết số 15/2022/NQ-HĐND ngày 23/9/2022 của HĐND tỉnh Quy định nội dung hỗ trợ; mẫu hồ sơ; trình tự, thủ tục, lựa chọn dự án, kế hoạch, phương án sản xuất, lựa chọn đơn vị đặt hàng thực hiện các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Như vậy, Trung ương và địa phương đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân phát triển sản xuất nông lâm nghiệp.
3. Công trình vườn ươm tại thôn Tân Chàng, xã Yên Hà thuộc dự án “Mở rộng vùng sản xuất giống cam sành Hà Giang theo tiêu chuẩn chất lượng tại huyện Quang Bình” được UBND tỉnh phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 382/QĐ-UBND ngày 06/3/2014. Đơn vị chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý các dự án PTNT trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT và được bàn giao cho Trung tâm KHKT giống cây trồng Đạo Đức sử dụng và khai thác từ ngày 11/7/2016. Ngày 03/10/2022, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT kiểm tra và làm rõ những nội dung cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình đã phản ánh(kết quả cho thấy thực trạng công trình, một số hạng mục đầu tư đã bị xuống cấp; tuy nhiên, hoạt động của Tổ sản xuất bảo tồn, lưu giữ cây đầu dòng vẫn được duy trì).
UBND tỉnh đã giao Sở Nông nghiệp và PTNT tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tập trung duy trì các hoạt động tại cơ sở Yên Hà và chăm sóc vườn cây ăn quả, chủ động bố trí kinh phí ưu tiên đầu tư sửa chữa hạng mục công trình đã xuống cấp; Tăng cường phối hợp, liên kết sản xuất giống cây lâm nghiệp, cây dược liệu; Phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh khai thác, sử dụng và quản lý công trình hiệu quả.
4. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với UBND các huyện Bắc Quang, Quang Bình rà soát xácđịnh chủ sử dụng đất, loại đất, diện tích để hoàn thiện phương án sử dụng quỹđất do UBND tỉnh thu hồi của các Công ty lâm nghiệp giao về cho UBNDhuyện Bắc Quang và Quang Bình quản lý; đồng thời chỉ đạo quyết liệt khắc phục những tồn tại, hạn chế đã nêu trong Kết luận Thanh tra số 146/KL-TTCP ngày ngày 26/01/2018 của Thanh tra Chính phủ. UBND tỉnh đã ban hành Thông báo số 192/TB-UBND ngày 02/11/2022 thông báo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Hoàng Gia Long - PCT Thường trực UBND tỉnh tại buổi làm việc bàn giải pháp đẩy nhanh tiến độ khắc phục những tồn tại theo Kết luận Thanh tra số 146/KL-TTCP ngày 26/01/2018 của Thanh tra Chính phủ, trong đó tiếp tục chỉ đạo: Các công ty lâm trường: Ngòi Sảo, Vĩnh Hảo, Cầu Ham khẩn trương có văn bản xin ý kiến Tổng Công ty Giấy Việt Nam có ý kiến chính thức về tổng diện tích quản lý sử dụng, diện tích rừng tự nhiên cắt trả lại cho địa phương quản lý.
UBND huyện Bắc Quang và Quang Bình đẩy nhanh tiến độ rà soát hoàn thiện phương án sử dụng đất để trình UBND tỉnh phê duyệt làm cơ sở cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân; phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường xây dựng kế hoạch cụ thể (gắn với tiến độ thời gian, trách nhiệm của các đơn vị liên quan) hoàn thiện phương án sử dụng đất theo hướng dẫn của Sở Tài nguyên và Môi trường để trình UBND tỉnh phê duyệt đối với diện tích các công ty lâm nghiệp cắt trả năm 2020 và việc đo đạc bản đồ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đối với diện tích đất UBND tỉnh đã thu hồi của 03 Công ty lâm nghiệp năm 2011; hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân trong năm 2023.
Kiểm tra nghiệm thu sản phẩm đo đạc bản đồ để thực hiện việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân; UBND huyện Bắc Quang chỉ đạo giải quyết dứt điểm những tồn tại của ký hợp đồng với các đơn vị tư vấn đo đạc đối với diện tích UBND tỉnh thu hồi đất năm 2011.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị có liên quan rà soát diện tích, loại đất của từng chủ sửdụng để xây dựng phương án sử dụng đất chi tiết đến từng thửa đất, chủ sử dụngđất đảm bảo phù hợp với địa phương đúng quy định của pháp luật.
5. Hiện nay nhu cầu sử dụng nước tưới cho sản xuất của nhân dân là rất cần thiết, bên cạnh đó do khó khăn về kinh phí nên việc bố trí vốn để duy tu, sửa chữa các công trình thủy lợi đã được đầu tư trước đây trên địa bàn tỉnh còn rất hạn chế. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quang Bình tổ chức khảo sát, cân đối nguồn lực, lập phương án để đầu tư sửa chữa, nâng cấp tuyến kênh mương của thôn Lùng Vi, xã Nà Khương phụcvụ nhu cầu sinh hoạt và tưới tiêu của người dân.
Kết quả thực hiện: Diện tích thu hồi đất của Cty lâm nghiệp Cầu Ham tại huyện Bắc quang là 632,16 ha; hiện nay có 427 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp); Diện tích thu hồi đất của cty lâm nghiệp Vĩnh Hảo tại huyện Bắc Quang là 719,42 ha; hiện nay có 602 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp); Diện tích thu hồi đất của cty lâm nghiệp Ngòi Sảo huyện Bắc Quang là 1.310,35 ha; hiện nay có 799 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp); Diện tích thu hồi đất của cty lâm nghiệp Cầu Ham tai huyện Quang Bình là 499,47ha; hiện nay có 341 chủ sử dụng đất (bao gồm các loại đấttrồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; đất phi nông nghiệp).
6. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra thực tế, kết quả kiếm tra cụ thể như sau: Phần mặt bằng khu nhà sàn lưu trú học sinh Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Bản Nhùng hiện có 03 vị trí tiềm ẩn nguy cơ sạt lở gây ảnh hưởng đến các công trình phía trên, tổng chiều dài khoảng 63m; xác định ý kiến, kiến nghị của cử tri là cần thiết.
Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã giao UBND huyện Hoàng Su Phì cùng các đơn vị có liên quanxây dựng phương án khắc phục tránh không bị sạt lở. Đồng thời, UBND tỉnh sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng công trình nêu trên khi bố trí được nguồn lực trong thời gian tới.
7. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra thực tế theo ý kiến kiến nghị của cử tri, kết quả như sau: Qua kiểm tra, đánh giá mực nước lũ hằng năm, đoạn suối trước nhà khách Sông Chảy rất lớn, có năm mực nước lũ tràn qua cầu (cầu cao 4,85m, rộng 17,5m), hai bên bờ suối là nhà dân, diện tích thượng lưu rộng lớn. Nếu xây dựng đập dâng nước khu vực này sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy của lòng suối và nhà dân hai bên bờ suối vào mùa mưa. Đồng thời, phía thượng lưu thường hay bị sạt lở, dễ bị lũ ống, lũ quét, đất đá sẽ vùi lập lòng suối, ảnh hưởng nhà dân trên địa bàn thị trấn. Do đó, việc cử tri đề nghị xây đập dâng nước đoạn suối trước nhà khách Sông Chảy để tạo cảnh quan cần có sự tư vấn cụ thể từ các cơ quan chức năng của Tỉnh và Trung ương, mặt khác kinh phí đầu tư lớn, chưa thể cân đối bố trí. UBND tỉnh xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan xem xét tính khả thi để đưa vào kế hoạch đầu tư giai đoạn tới.
8. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT cùng các đơn vị có liên quan tiến hành kiểm tra thực tế tại công trình cấp nước sinh hoạt Trung tâm xã Trung Thành. Qua kiểm tra cho thấy công trình cấp nước sinh hoạt xã Trung Thành, hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng từ năm 2020, các hạng mục công trình như: Đập đầu nguồn, thiết bị lọc, tuyến đường ống dẫn nước chính vẫn hoạt động bình thường, hiện nay công trình vẫn đang cấp nước sinh hoạt cho toàn hệ thống công trình.
Tuy nhiên, tại thời điểm kiểm tra hiện trường,  phát hiện có 02 vị trí của tuyến ống nhánh bị tắc, rò rỉnước (vị trí tuyến nhánh cấp nước xuống thôn Minh Thành và thôn Đồng.Nguyên nhân là do thi công nâng cấp tuyến đường thuộc Dự án “Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn” - Tiểu dự án tỉnh Hà Giang tại địa phận xã Trung Thành). Đến thời điểm ngày 18/10/2022, đơn vị thi công tuyến đường đã khắc phục lại những vị trí bị hỏng do làm đường gây ra. UBND tỉnh đã giao Sở Nông nghiệp và PTNT tiếp tục kiểm tra, giám sát, đảm bảo việc cấp nước sinh hoạt cho nhân dân.
1.Đề nghị tỉnh quan tâm, nghiên cứu có cơ chế chính sách đặc thù hỗ trợ các xã sau khi hoàn thành Chương trình MTQG NTM, không còn được hưởng các chế độ chính sách hỗ trợ như: bảo hiểm y tế, giáo dục... (cử tri huyện Vị Xuyên).
2. Đề nghị tỉnh quan tâm, nghiên cứu triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 09-CT/TU, ngày 10/5/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng bài trừ các hủ tục lạc hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà Giang; Nghị quyết số 27-NQ/TU, ngày 01/5/2022 của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện xóa bỏ hủ tục, phong tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2022-2025, định hướng đến 2030. Đề nghị tỉnh có chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ thầy kèn, thầy trống vì đây chính là đội ngũ trực tiếp tuyên truyền, vận động và thực hiện đổi mới trong tang ma (cử tri xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc).
3. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm báo cáo HĐND tỉnh xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh quy định số lượng, chức danh đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã;mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với người hoạt động không chuyêntrách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; mức bồi đưỡng, mức phụ cấp đối với người trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang, cụ thể: Nâng mức phụ cấp hàng tháng của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự xã theo Nghị quyết 40/NQ-HĐND tỉnh từ 1,0 lên 1,5 (cử tri xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc)
Nâng mức hỗ trợ đối với lực lượng dân quân tự vệ cấp xã: (1) Mức chi trả ngày công lao động từ 130.000 đồng lên 150.000 đồng/người/ngày; (2) Mức hỗ trợ tiền ăn từ 65.000 đồng lên 80.000 đồng/người/ngày; (3) Hỗ trợ ban chỉ huy quân sự xã 20.000.000 đến 30.000.000 đồng/năm để phục vụ các hoạt động phát sinh trong năm (cử tri xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ).
4. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm báo cáo HĐND tỉnh xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 22/NQ-HĐND ngày 15/7/2011 của HĐND tỉnh về ban hành chính sách hỗ trợ học sinh bán trú, học sinh nghèo không thuộc đối tượng hưởng theo quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 và Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ; chính sách hỗ trợ đối với cán bộ quản lý, người phục vụ học sinh bán trú tại các trường phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang: Đề nghị sửa đổi, bổ sung thêm 02 đối tượng: (1) cán bộ y tế trường học; (2) cán bộ thư viện cũng được hưởng chính sách hỗ trợ như đối với đối với cán bộ giáo viên quản lý học sinh bán trú, vì trên thực tế hiện nay 02 vị trí cán bộ này đều tham gia quản lý học sinh bán trú (cử tri xã Giàng Chu Phìn, huyện Mèo Vạc).
5.Đề nghị tỉnh xem xét nghiên cứu trình HĐND tỉnh sửa đổi Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh quy định mức thu, các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang, theo đó nâng mức thu tiền vệ sinh lớp học; học phẩm phục vụ thi khảo sát chất lượng do mức thu theo quy định hiện hành không đáp ứng chi cho hoạt động của các nhà trường; đồng thời hướng dẫn việc bù chi đối với những khoản miễn giảm của học sinh (cử tri phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang).
6. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm báo cáo HĐND tỉnh xem xét, sửa đổi Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh quy định mức thu, các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang: Đề nghị sửa đổi về khoản tiền dịch vụ hỗ trợ “Dạy tăng cường ngoại ngữ, dạy song ngữ cho học sinh từ lớp 3 đến lớp 12; tổ chức dạy học cho trẻ làm quen với ngoại ngữ ở mầm non và học sinh lớp 1, lớp 2; dạy học tăng cường đối với các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông; dạy học bồi dưỡng; dạy học ôn thi (theo hình thức tự nguyện trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất với cha mẹ học sinh)” theo hướng mở, phù hợp với thực tế (Không quy định cứng nhắc mức tối thiểu 7.000 đồng, tối đa 8.000 đồng /tiết học/học sinh – Tối đa không quá 3 tiết/buổi) như hiện nay để các trường chủ động hợp tác, chi trả tiền cho giáo viên được mời thỉnh giảng (Cử tri Trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hà Giang).
7. Đề nghị UBND tỉnh sớm có Quyết định về điều chỉnh địa giới hành chính có liên quan đến xã Xuân Giang và xã Yên Hà, huyện Quang Bình. Từ năm 2017, Sở Nội vụ chủ trì phối hợp với UBND huyện Quang Bình, UBND xã Xuân Giang, xã Yên Hà, Ban quản lý thôn Tịnh xã Xuân Giang, thôn Trung Thành xã Yên Hà tổ chức hiệp thương về việc quản lý sử dụng đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa 2 xã Xuân Giang và xã Yên Hà, kết quả hiệp thương đã thống nhất điều chỉnh 300 ha đất các loại (đất lúa, vườn tạp, vườn rừng và thổ cư) từ xã Xuân Giang về địa giới xã Yên Hà quản lý (cử tri xã Yên Hà, huyện Quang Bình).
8. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm có các giải pháp khắc phục tình trạng thiếu giáo viên bộ môn (tin học và ngoại ngữ) trên địa bàn tỉnh Hà Giang (cử tri các xã huyện Vị Xuyên).
9. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm, xem xét về giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm theo vị trí việc làm thay cho việc giao trên tổng số biên chế hiện có như hiện nay để các đơn vị trường học chủ động hợp đồng giáo viên và thanh toán tiền thừa giờ cho giáo viên (cử tri ngành Giáo dục - Đào tạo, thành phố Hà Giang).
10. Cử tri đề nghị tỉnh quan tâm, cân đối chỉ tiêu tinh giảm biên chế giữa các ngành theo hướng hạ thấp chỉ tiêu cho Ngành Giáo dục – Đào tạo thấp hơn 10% như chỉ tiêu giao hiện nay do Ngành Giáo dục và Đào tạo đang thiếu giáo viên (cử tri ngành Giáo dục - Đào tạo, thành phố Hà Giang).
11. Đề nghị UBND tỉnh sớm tổ chức thi/xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên công lập các cấp hiện nay đủ các điều kiện, tiêu chuẩn chưa được thăng hạng và xếp ngạch theo ngành học tương ứng. Đồng thời, xem xét bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các Trường THCS công lập theo Thông tư số số 03/2021/TT-BGDĐT ngày 02/02/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (cử tri xã Bằng Lang, huyện Quang Bình; cử tri xã Bạch Đích, huyện Yên Minh).
12. Đề nghị tỉnh có cơ chế xét tuyển thẳng học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi từ cấp tỉnh vào học tại Trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hà Giang; Trường THCS Lý Tự trọng, huyện Vị Xuyên, Trường Lương Thế Vinh, huyện Bắc Quang (cử tri Trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hà Giang).
13.Đề nghị tỉnh bố trí kinh phí để trang cấp đồng bộ trang thiết bị dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông, mới năm 2018 và trang thiết bị phòng học thông minh (cử tri ngành Giáo dục - Đào tạo, thành phố Hà Giang).
14.Cử tri đề nghị tỉnh kiến nghị với Trung ương một số chính sách về giáo dục, cụ thể:(i) Có chính sách hỗ trợ ăn trưa cho trẻ từ 0-2 tuổi có hộ khẩu thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn để thực hiện chương trình dạy học 2 buổi/ngày bắt buộc và đảm bảo duy trì tỷ lệ trẻ 0-2 tuổi đến trường đạt mức cao. (ii) Xem xét bổ sung đối tượng được hưởng chính sách đối với giáo viên mầm non trực tiếp dạy 02 buổi/ngày hoặc trực tiếp dạy tăng cường Tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên tại trường chính ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn. Hiện tại Nghị định số 105/2020/NĐ-CP ngày 08/9/2020 của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non không quy định đối với 02 nội dung này (cử tri xã Bạch Đích, huyện Yên Minh).
15. Đề nghị tỉnh xem xét nâng mức phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và nâng mức phụ cấp kiêm nhiệm đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã khi kiêm nhiệm chức danh được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm lên 100% (cử tri xã Nà Khương, Tiên Yên, huyện Quang Bình).
16. Đề nghị tỉnh xem xét chỉ đạo cơ quan chức năng hướng dẫn trình tự, thủ tục hưởng chế độ chính sách theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg và Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đối với những đối tượng bị sai lệch về thông tin cá nhân trong hồ sơ để thực hiện thống nhất trên địa bàn toàn tỉnh (cử tri các xã huyện Hoàng Su Phì).
17. Đề nghị tỉnh xem xét nghiên cứu chế độ chính sách đặc thù để hỗ trợ cho các đối tượng thuộc diện tinh giảm biên chế theo Quyết định số 32/2020/QĐ-UBND ngày 25/11/2020 của UBND tỉnh (cử tri xã Tân Tiến, huyện Hoàng Su Phì).
1.Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 25/2021/QH15; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết định phê duyệt, Chương trình sẽ tập trung nguồn lực bố trí cho các xã đã hoàn thành Chương trình MTQG NTM để duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Nguồn vốn năm 2022 đã được Trung ương và UBND tỉnh thực hiện phân bổ 100% cho các huyện, thành phố triển khai thực hiện. Về các chính sách hỗ trợ như bảo hiểm y tế, giáo dục…, sau khi xã được công nhận hoàn thành xây nông thôn mới thì không còn được được các chế độ như năm 2020 trở về trước là đúng quy định theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bàodân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025. UBND tỉnh đã chỉ đạo sở ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến người dân, nhất là các chủ trương, chính sách liên quan đến chế độ, chính sách của người dân hiện nay, để người dân hiểu và thực hiện; đồng thời tiếp tục kêu gọi, vận động quỹ hỗ trợ khuyến học đối với học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn trên tại các xã khu vực I trên địa bàn huyện (quan tâm đến học sinh của các xã đã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nhưng gia đình còn khó khăn).
2. Thực hiện Chỉ thị và Nghị quyết của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng bài trừ các hủ tục lạc hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà Giang, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình số 199/CT-UBND ngày 09/7/2021 và Kế hoạch số 175/KH-UBND ngày 01/7/2022 để triển khai thực hiện. Căn cứ Kế hoạch đã ban hành, các ngành, các cấp đã và đang tập trung quyết liệt tổ chức các hoạt động tuyên truyền, hội thảo, bảo tồn các giá trị di sản văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; tuyên truyền vận động xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong cộng đồng xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và trong sinh hoạt đời sống gắn với các nội dung, hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Về chính sách hỗ trợ đối với đội ngũ thầy kèn, thầy trống: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho hoạt động của Hội nghệ nhân dân gian theo Nghị quyết số 56/2021/NQ-HĐND ngày 03/12/2021 của HĐND tỉnh, trong đó hỗ trợ hoạt động của Hội nghệ nhân dân gian theo Kết luận số 08-KL/TU ngày 24/11/2020 của Thường trực Tỉnh ủy và Kế hoạch số 174/KH-UBND ngày 09/6/2021 của UBND tỉnh: 10 triệu đồng/hội/năm. Đồng thời, UBND tỉnh cũng chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các ngành có liên quan, UBND các huyện, thành phố tập trung nghiên cứu đề xuất ban hành các cơ chế chính sách đối với công tác bảo tồn văn hóa, xóa bỏ hủ tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh; chính sách hỗ trợ đối với người trực tiếp trông coi di tích và nghệ nhân lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3. Về việc nâng mức phụ cấp hàng tháng của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự xã: HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND ngày 15/7/2022 sửa đổi một số điều của Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND. Trong đó đã thực hiện nâng mức bồi dưỡng đối với người tham gia công việc khác ở thôn, tổ dân phố. Chức danh Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự có nhiệm vụ, thời gian làm việc tương đồng với những người hoạt động không chuyên trách khác ở cấp xã và đã được quy định mức phụ cấp tương đối cao: với hệ số 1,0; khi kiêm nhiệm 2 chức danh, người hoạt động không chuyên trách sẽ được hưởng phụ cấp có hệ số 1,8 (hệ số này đã gần ngang bằng với công chức xã). Ngoài ra khi so sánh với mức khoán của Trung ương tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ, hằng năm, ngân sách tỉnh phải đảm bảo thêm 82,3 tỷ đồng/năm để chi cho đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; đây là khoản kinh phí lớn địa phương phải cân đối bổ sung thêm so với mức khoán của Trung ương. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nội vụ tiếp thu ý kiến của cử tri để nghiên cứu, tham mưu các nội dung đảm bảo quy định của pháp luật.
Về việc nâng mức hỗ trợ cho lực lượng dân quân tự vệ:
(i) Về kiến nghị nâng mức chi trả ngày công lao động từ 130.000 đồng lên 150.000 đồng/người/ngày:
Căn cứ quy định tại Nghị định số 72/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Dân quân tự vệ về tổ chức xây dựng lực lượng và chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 34/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 quy định mức trợ cấp ngày công lao động cho dân quân trên địa bàn tỉnh Hà Giang.  Mức trợ cấp ngày công lao động cho dân quân khi được huy động làm nhiệm vụ là 130.000 đồng/người/ngày, tăng 9% so với mức tối thiểu quy định tại Nghị định số 72/2020/NĐ-CP của Chính phủ (mức tối thiểu TW quy định 119.200 đồng/người/ngày).
Với mức trợ cấp ngày công lao động tại Nghị quyết số 34/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh, hàng năm ngân sách địa phương phải bố trí trong dự toán chi thường xuyên số tiến  27.184 triệu đồng để đảm bảo (NSTW không hỗ trợ). Nếu tiếp tục điều chỉnh mức trợ cấp ngày công lao động theo kiến nghị của cử tri thì nhu cầu kinh phí thực hiện chính sách tăng thêm khá lớn, sẽ vượt quá khả năng cân đối của NSĐP.
(ii) Mức hỗ trợ tiền ăn từ 65.000 đồng lên 80.000 đồng/người/ngày.
Theo điểm b, Khoản 1, Điều 11 -Nghị định số 72/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Dân quân tự vệ về tổ chức xây dựng lực lượng và chế độ, chính sách đối với Dân quân tự vệ quy định: “Mức tiền ăn bằng tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh đang tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.” Tại Thông tư số 168/2021/TT-BQP ngày 18/12/2021 của Bộ Quốc phòng quy định tiêu chuẩn, định lượng ăn và mức tiền ăn cơ bản bộ binh, quân binh chủng, binh chủng, bệnh nhân điều trị, học viên quân sự quốc tế; ăn thêm ngày lễ, tết khi làm nhiệm vụ; chế độ ăn, bồi dưỡng hàng năm quy định tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh là 65.000 đồng/người/ngày.
Việc quy định mức hỗ trợ tiền ăn đối với lực lượng dân quân khi làm nhiệm vụ bằng tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Quốc phòng. Tỉnh không có thẩm quyền quy định điều chỉnh tăng mức tiền ăn từ 65.000 đồng lên 80.000 đồng/người/ngày theo kiến nghị của cử tri.
(iii) Hỗ trợ ban chỉ huy quân sự xã 20.000.000 đến 30.000.000 đồng/năm để phục vụ các hoạt động phát sinh trong năm
Theo quy định tại Điều 20, Luật Dân quân tự vệ 2019 Ban chỉ huy quân sự cấp xã là cơ quan thường trực công tác quốc phòng ở cấp xã, trong đó: Thành phần gồm Chỉ huy trưởng là Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp xã, sĩ quan dự bị; Chính trị viên do Bí thư cấp ủy cấp xã đảm nhiệm; Chính trị viên phó do Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp xã đảm nhiệm; Phó Chỉ huy trưởng là người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Như vậy, Ban chỉ huy quân sự xã là một cơ quan thường trực công tác quốc phòng ở cấp xã và được UBND xã, phường, thị trấn đảm bảo kinh phí hoạt động để thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng ở cấp xã. Do đó khi có các nhiệm vụ phát sinh trong năm đề nghị Ban chỉ huy quân sự xã báo cáo UBND xã hỗ trợ kinh phí (trong dự toán chi thường xuyên NSNN hàng năm của ngân sách cấp xã) để thực hiện.
Căn cứ dự toán tỉnh giao hàng năm theo định mức phân bổ (có định mức cho hỗ trợ lĩnh vực quốc phòng) UBND huyện Quản Bạ bố trí dự toán chi hỗ trợ hoạt động của ban chỉ huy quân sự xã trong dự toán chi thường xuyên giao hàng năm cho các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
4. UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng dự thảo “Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ đối với học sinh đang học bán trú, học sinh nghèo không thuộc đối tượng hỗ trợ của Nghị định 116/2016/NĐ-CP của Chính
phủ; người làm công tác quản lý học sinh bán trú tại các trường phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh Hà Giang”để thay thế cho Nghị quyết số 22/2011/NQ-HĐND ngày 15/7/2011. Tuy nhiên, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng “Nghị định quy định chính sách học sinh, họcviên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có học sinh hưởng chính sách” để thay thế cho Nghị định số 116/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Vì vậy, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế cho Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo ngành GD&ĐT nghiên cứu, hoàn thiện Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 22/2011/NQ-HĐND trình HĐND tỉnh ban hành.
5. Đối với nội dung về mức thu tiền vệ sinh lớp học: Mục đích thực hiện khoản thu tiền vệ sinh trong nhà trường là để chi trả tiền thù lao thuê lao công dọn dẹp vệ sinh và tiền mua thiết bị vệ sinh. Theo quy định tại Nghị định số 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022 của Chính phủ, mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao độngđối với địa bàn thành phố Hà Giang là 3.640.000 đồng/tháng, đối với các huyện cònlại 3.250.000 đồng/tháng. Qua khảo sát, trung bình mỗi trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang có khoảng 420 học sinh, với mức thu như hiện tại thì bình quân mỗi trường thu từ người học khoảng 4.200.000 đồng/tháng. Số tiền này đã đảm bảo chi trả cho công tác vệ sinh lớp học, đồng thời vẫn có khoảng dư đảm bảo chi trả nếu thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trong những năm tiếp theo. Đối với chi phí về phương tiện và công cụ để thực hiện công tác vệ sinh, nhà trường chi trả từ nguồn ngân sách sự nghiệp giáo dục hàng năm được cấp. Do đó mức thu theo quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND là hoàntoàn phù hợp đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện nay.
Đối với mức thu tiền học phẩm phục vụ kiểm tra, thi khảo sát chất lượng:
Theo Chương trình giáo dục đào tạo hiện hành thì tần suất, số lượng các bài kiểm tra, thi khảo sát chất lượng trong một năm học của từng cấp học và mức thu tiền học phẩm phục vụ kiểm tra, thi khảo sát chất lượng quy định tạiNghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND như sau:
 
STT Lớp/cấp học Số bài kiểm tra Số tờ/bài Tổng số tờ Đơn giá sao in đề kiểm tra (đồng/tờ) Thành tiền Mức thu học phẩm phục vụ kiểm tra, thi khảo sát chất lượng quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND
Mức thu tối thiểu Mức thu tối đa
1 Lớp 1, lớp 2 4 2 8 300 2.400 3.200 4.000
2 Lớp 3 8 2 16 300 4.800 6.400 8.000
3 Lớp 4, lớp 5 16 3 48 300 14.400 19.200 24.000
4 Cấp THCS, THPT 48 4 192 300 57.600 76.800 96.000
5 GDTX 32 4 128 300 38.400 51.200 64.000

Đối chiếu giữa mức thu quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND và chi phí để sao in đề kiểm tra thì mức thu này hoàn toàn phù hợp để các nhà trường triển khai thực hiện. Đối với nội dung bù chi những khoản miễn giảm của học sinh: Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND quy định mức thu các khoản thu dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục công lập mục đích là để phục vụ người học. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn đơn vị có liên quan rà soát, tổng hợp các khoản được miễn giảm và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, bổ sung kinh phí từ nguồn ngân sách sự nghiệp giáo dục đào tạo theo phân cấp quản lý ngân sách hiện hành.
6. Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh quy định mức thu đối với “Dạy học tăng cường ngoại ngữ, dạy song ngữ cho học sinh tư lớp 3 đến lớp 12; tổ chức dạy học cho trẻ em làm quen với ngoại ngữ ở mầm non và học sinh lớp 1, lớp 2; dạy học tăng cường đối với các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông; dạy học bồi dưỡng; dạy học ôn thi” mức thu: từ 7.000 – 8.000 đồng/hs/tiết, mỗi buổi không quá 03 tiết nhằm mục đích: Đảm bảo sự thống nhất về mức thu tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh; đảm bảo chế độ thù lao cho người trực tiếp giảng dạy và công tác quảnlý dạy - học, bổ sung cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục; đảm bảo chế độ làm thêm giờ đối với cán bộ quản lý, giáo viên theo các văn bản hướng dẫn hiện hành của Bộ GD&ĐT; phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong giai đoạn hiện nay. Do vậy mức thu hiện nay quy định tại Nghị quyết số 33/2021/NQ-HĐND là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Mặt khác, nếu để các cơ sở giáo dục chủ động đưa ra định mức thu đối với các nội dung này sẽ xảy ra một số bất cập nhất định như: Mức thu tại các cơ sở giáo dục trên cùng địa bàn, cùng nơi có điều kiện phát triển kinh tế xã hội như nhau có thể khác nhau; Dễ xảy ra tình trạng lạm thu tại các cơ sở giáo dục, dẫn tới đơn thư, khiếu nại tố cáo đối với các cơ sở giáo dục gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm tra, giám sát.
7. Thực hiện Quyết định số 513/QĐ-TTg ngày 02/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án "Hoàn thiện, hiện đại hóahồ sơ, bản đồ địa giới hành chính và xây dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành chính", trong giai đoạn 2012-2020, UBND tỉnh đã giao Sở Nội vụ phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai dự án 513 trên địa bàn toàn tỉnh. Quá trình triển khai dự án, các bất cập về địa giới hành chính trên địa bàn toàn tỉnh cơ bản đã được hiệp thương, điều chỉnh cho phù hợp. Trong đó, tuyến địa giới hành chính giữa xã Yên Hà với xã Xuân Giang, huyện Quang Bình đã được hiệp thương điều chỉnh trong bản đồ mới. Bộ hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính 513 tỉnh Hà Giang đã được Trung ương nghiệm thu và đưa vào quản lý, sử dụng từ 01/01/2021.
 8. Trước tình hình thiếu giáo viên Tiếng Anh, Tin học, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành GD&ĐT chủ động phối hợp với UBND các huyện, thành phố triển khai thực hiện và tập trungmột số giải pháp như sau:
(i) Rà soát, sắp xếp định mức học sinh/lớp đạt mức tối đa theo quy định  của Bộ GD&ĐT và phù hợp với thực tiễn địa phương (Tiểu học không quá 35 HS/lớp; THCS trở lên không quá 45 HS/lớp).
(ii) Sắp xếp tổ chức lại các cơ sở giáo dục đảm bảo hoạt động hiệu quả: Dồn dịch điểm trường để đưa học sinh Tiểu học tư điểm trường về trường chính (nhất là từ lớp 3); Thành lập các trường PTDT nội trú THCS&THPT (sử dụng tối đa giáo viên văn hóa của các Trung tâm GDNN-GDTX các huyện); thực hiện và tiếp tục xây dựng kế hoạch sáp nhập các cơ sở giáo dục có quy mô nhỏ dưới 10 lớp.
(iii) Ngay sau khi Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư 32/TT-BGDDT về Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (ngày 26/12/2018), UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch về đào tạo Văn bằng 2 cho giáo viên phổ thông dạy môn Tin học, Tiếng Anh, Âm nhạc, Mỹ thuật để thực hiện Chương trình GDPT 2018; năm 2020 ngành GD&ĐT đã cử được 303 giáo viên đi đào tạo Văn bằng 2 (tiếng Anh 34, Tin học 221, Âm nhạc 24, Mỹ thuật 24). Số giáo viên này có thể bắt đầu tham gia giảng dạy ngay từ năm học 2022-2023 sau khi tốt nghiệp.
(iv) Tuyên truyền, vận động đội ngũ nhà giáo dạy thêm giờ, tăng tiết; bố trí một giáo viên giảng dạy nhiều trường/nhiều cấp (có thể và từ cấp THPT đến cấp tiểu học) trên cùng địa bànvà theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT.
(v) Hợp đồng giáo viên (trong số chỉ tiêu biên chế được giao chưa sử dụng) theo Nghị quyết 102/NQ-CP ngày 03/7/2020 của Chính phủ về giải pháp đối với biên chế sự nghiệp giáo dục và y tế. Tiếp tục rà soát, đề xuất phương án để xin chủ trương tuyển dụng giáoviên trong số chỉ tiêu biên chế được giao chưa sử dụng.
(vi) Bố trí dạy học trực tuyến (đối với môn tiếng Anh do thiếu giáo viên và thiếu nguồn tuyển/hợp đồng) ở những nơi thuận lợi, đảm bảo về trang thiết bị, điều kiện để tổ chức dạy học trực tuyến, đồng thời bố trí giáo viên tiếng Anh đến dạy học trực tiếp ở những nơi khó khăn/không có điều kiện tổ chức dạy học trực tuyến.
(vii) Nghiên cứu, tham mưu triểnkhai thực hiện việc phát triển nhóm, lớp tư thục mầm non, phổ thông ở những nơi/vùng có điều kiện thuận lợi (Nội dung trongNghị quyết số 06 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ngày 10/5/2021 về phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2020 - 2025) nhằm giảm phần nào áp lực về biên chế giáo viên, đồng thờiưu tiên biên chế để đề xuất tuyển dụng giáo viên cho các cơ sở giáo dục ở vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn.
Với các giải pháp nêu trên, đến nay trên địa bàn tỉnh, các đơn vị trường học đã tổ chức thực hiện giảng dạy môn Tiếng Anh, Tin học cho học sinh, cơ bản đáp
ứng công tác dạy và học.
 9. Quy định về việc giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm: Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 của Chính phủ về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập đã ban hành và giao cho các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên đến nay  Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành Trung ương vẫn chưa ban hành Thông tư hướng dẫn. Do đó chưa có cơ sở để thực hiện giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm theo vị trí việc làm. Hiện nay trên địa bàn các tỉnh trong cả nước vẫn đang triển khai giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm trên tổng số biên chế hiện cóNăm 2022, UBND tỉnh Hà Giang thực hiệngiao dự toán chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục theo chỉ tiêu biên chế được UBND tỉnh giao theo đúng Nghị quyết số 56/2021/NQ-HĐND ngày 03/12/2021 của HĐND tỉnh về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSĐP năm 2022. Trong thời gian tới, sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành Trung ương ban hành hướng dẫn thực hiện Nghị định số 106/2020/NĐ-CP; UBNDtỉnh sẽ chỉ đạo các Sở, ngành và UBND cấp huyện triển khai thực hiện việc giao kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm theo vị trí việc làm, đảm bảo theo đúng quy định.
Về quy định hợp đồng giáo viên trong các đơn vị sự nghiệp công lập: Tại mục 3, Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 05/7/2020 của Chính phủ về giải pháp đối với biên chế sự nghiệp giáo dục và y tế quy định“Đơn vị sự nghiệp giáo dục và y tế công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp giáo dục và y tế công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên được ký hợp đồng lao động (dưới 12 tháng) đối với các vị trí việc làm là giáo viên và viên chức y tế trong phạm vi số lượng biên chế viên chức được cấp có thẩm quyền giao và theo định mức quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế để kịp thời thay cho số giáo viên và viên chức y tế nghỉ thai sản và nghỉ hưu theo chế độ (chưa kịp tuyển dụng thay thế) và để bố trí giáo viên dạy buổi thứ 02 trong ngày (đối với những cơ sở giáo dục dạy 02 buổi/ngày). Hằng năm, cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng viên chức phải tổ chức tuyển dụng để thay thế cho số giáo viên và viên chức ytế còn thiếu, bảo đảm đủ số lượng người làm việc được cơ quan có thẩm quyền giao. Không để kéo dài hợp đồng lao động làm chuyên môn quá 12 tháng đối với vị trí việc làm là giáo viên và viên chức y tế.”. Như vậy, trường hợp các trường chưa tuyển dụng đủ giáo viên theo biên chế giao thì được ký hợp đồng lao động (dưới 12 tháng) đối với chỉ tiêu biên chế còn thiếu hoặc thanh toán tiền thêm giờ cho giáo viên theo quy định.
10. Tại Kết luận số 40-KL/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về nâng caohiệu quả công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị gia đoạn 2022 - 2026; Quyết định số 72-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về biên chế các cơ quan đảng, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy khối trực thuộc Trung ương giai đoạn 2022-2026. “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Giai đoạn 2021 - 2026, toàn hệ thống chính trị tinh giản ít nhất 5% biên chế cán bộ, công chức và ít nhất 10% biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Như vậy, theo chủ trương của Trung ương thì việc thực hiện tinh giản biên chế công chức, viên chức được thực hiện trong toàn hệ thống chính trị, chưa có văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể việc hạ thấp chỉ tiêu tinh giản biên chế viên chức cho Ngành Giáo dục - Đào tạo thấp hơn 10%.
11. Theo quy định tại khoản 1, Điều 31 Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ: Việc thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và phù hợp vớicơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp của đơn vị sự nghiệp công lập đãđược cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tháng 6/2022UBND tỉnh đã phê duyệt vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp; đây là để xác định chỉ tiêu thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức:
Về thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng IV lên hạng III đối với ngành Giáo dục: UBND tỉnh đã giao UBND các huyện và thành phố thực hiện việc chuyển xếp từ hạng IV lên hạng III đối với viên chức theo quy định tại cácThông tư số 01,02/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, không phải xét thăng hạng từ hạng IV lên hạng III (Công văn số 1098/UBND-NCPC ngày15/4/2021 của UBND tỉnh).
Về thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II đối với ngành Giáo dục: UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Nội vụ căn cứ vào vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và trên cơ sở đăng ký của các cơ quan, đơn vị, tham mưu xây dựng Đề án thăng hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lênhạng II trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện.
Việc bổ nhiệm, xếp lương đối với viên chức theo quy định tại các Thông tư số 01,02,03,04/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạoHiện nay, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Nội vụ, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơquan, đơn vị liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền thammưu triển khai thực hiện theo đúng quy định hiện hành.
12. Hiện nay, cấp Tiểu học không có Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, chỉ có Cuộc thi giao lưu mang tính chất động viên, khích lệ các em học sinh. Đồng thời, việc tuyển sinh vào lớp 6 cấp Trung học cơ sở đang được thực hiện theo phương thức xét tuyển. Tuy nhiên trong các trường hợp cơ sở giáo dục có số học sinh đăng ký vào học lớp 6 nhiều hơn chỉ tiêu tuyển sinh, Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ hướng dẫn thực hiện phương án tuyển sinh theo phương thức xét tuyển hoặc kết hợp xét tuyển với kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh.
13. Đối với việc trang cấp đồng bộ thiết bị dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông năm 2018: Căn cứ Kế hoạch thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1, lớp 2, lớp 6 cho các cơ sở giáo dục. Đến năm học 2022-2023, 100% số trường Tiểu học, TH&THCS đã được trang cấp thiết bị dạy học tối thiểu lớp 1 và lớp 2; 95,4% số trường THCS,THCS&THPT đã được trang cấp thiết bị dạy học tối thiểu lớp 6. Danh mục các thiết bị được trang cấp theo đúng danh mục đã được quy định tại Thông tư số 05/2019/TT-BGDĐT ngày 05/4/2019, Thông tư số 43/2020/TTBGDĐT ngày3/11/2020 và Thông tư số 44/2020/TT-BGDĐT ngày 03/11/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, Sở Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục triển khai mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu cho các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo Sở Tài chính phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và UBND các huyện, thành phố căn cứ khả năng cân đối của ngân sách địa phương báo cáo UBND tỉnh để mua sắm trang thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông; đồng thời thực hiện lồng ghép từ các nguồn vốn khác để đảm bảo trang cấp đồng bộ thiết bị dạy học theo chương trình giáo dụcphổ thông năm 2018.
Đối với việc trang cấp phòng học thông minh: Để đầu tư cho 01 lớp học thông minh cần có các thiết bị sau: Màn hình tương tác thông minh; máy tính bảng/máy tính dành cho học sinh; tai nghe cho học sinh; hệ thống mạng không dây; hệ thống âm thanh lớp học; hệ thống camera ghi hình, trợ giảng, dự giảng từ xa; phần mềm dạy học trực tuyến và quản lý học sinh; tủ sạc và bảo quản thiết bị di động. Hiện nay các lớp học đã được trang bị màn hình tương tác thông minh; phần mềm dạy học trực tuyến và quản lý học sinh. Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo ngành Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, tham mưu đề xuất triển khai thí điểm phòng học thông minh trên địa bàn Thành Phố Hà Giang để đánh giá hiệu quả và làm cơ sở đề xuất triển khai trên diện rộng, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phươngvà điều kiện giảng dạy, học tập từng địa bàn.
14. Nghị định số 105/2020/NĐ-CP ngày 08/9/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển giáo dục mầm non quy định các nội dung hỗ trợ, trong đó: Chỉ hỗ trợ bữa ăn trưa cho trẻ mẫu giáo, còn trẻ từ 0-2 tuổi không có chính sách hỗ trợ bữa ăn trưa; chỉ hỗ trợ cho giáo viên “Trực tiếp dạy 02 buổi/ngày tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên” hoặc “ Trực tiếp dạy tăng cường tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo có trẻ em là người dân tộc thiểu số” ở thôn đặc biệt khó khăn, xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã đặc biệt khó khăn. Còn đối với giáo viên mầm non trực tiếp dạy 2 buổi/ngày hoặc trực tiếp tăng cường tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên tại trường chính ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn không thuộc đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã có kiến nghị, đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu với Chính phủ quan tâm sửa đổi để bổ sung chế độ chính sách cho giáo viên và trẻ mầm non, tuy nhiên đến nay vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung. Trong thời gian tới, UBND tỉnhsẽ tiếp tục đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chính phủ bổ sung các chính sách để hỗ trợ cho giáo viên và trẻ mầm non thuộc các xã, thôn đặc biệt khó khăn.
15. Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh Hà Giang ban hành 02 Nghị quyết về quy định chế độ phụ cấp, phụ cấp kiêm nhiệm đối với những người hoạt động không chuyên trách, gồm: Nghị quyết số 40/2020/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 và Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND ngày 15/7/2020. Mức phụ cấp, phụ cấp kiêm nhiệm được quy định trong các Nghị quyết nêu trên của HĐND tỉnh là khá cao so với mặt bằng chung và so với mức khoán của Trung ương. Cụ thể:
So với các tỉnh giáp ranh có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, mức phụ cấp của những người không chuyên trách của tỉnh Hà Giang là một trong các tỉnh cao nhất. Khi kiêm nhiệm 2 chức danh, người hoạt động không chuyên trách sẽ được hưởng phụ cấp có hệ số 1,8; hệ số này đã gần ngang bằng với công chức xã (công chức xã có trình độ trung cấp, xếp lương bậc 1 được hệ số 1,86); so với mức khoán của Trung ương tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Hằng năm, ngân sách tỉnh phải đảm bảo thêm 82,3 tỷ đồng/năm để chi cho đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; đây là khoản kinh phí lớn địa phương phải cân đối bổ sung thêm so với mức khoán của Trung ương.
UBND tỉnh chỉ đạo Sở Nội vụ tiếp thu ý kiến của cử tri để nghiên cứu, tham mưu các nội dung về chế độ, chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách đảm bảo quy định của pháp luật.
16. Thực hiện Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg ngày 14/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ, chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành rà soát đối tượng được hưởng chế độ, chính sách và đã đề nghị Bộ Tư lệnh Quân khu 2 ban hành các Quyết định cho 56.538 đối tượng được hưởng trợ cấp một lần. Quá trình chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tại các huyện, thành phố luôn bảo đảm chặt chẽ, chính xác, kịp thời, đúng chính sách, đúng đối tượng, công khai. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai đối tượng được thụ hưởng trên địa bàn tỉnh có trường hợp không biết chữ, do đó khi xác lập hồ sơ phải nhờ người kê khai hộ dẫn đến thông tin cá nhân trong hồ sơ hưởng chế độ trợ cấp một lần bị sai lệch. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã hướng dẫn UBND các huyện thành phố trong việc hỗ trợ, xử lý hồ sơ của các đối tượng bị sai lệch về thông tin cá nhân để được hưởng hỗ trợ chính sách theo quy định của pháp luật.
17. Theo quy định tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định về cán bộ, côngchức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 14 đã hướng dẫn chi tiết, cụ thể việc giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư khi sắp xếp theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ.
Sau khi UBND tỉnh ban hành Quyết định số 32/2020/QĐ-UBND ngày 25/11/2020 quy định số lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Giang, từ đầu năm 2021 đến nay, UBND các huyện, thành phố đã và đang bốtrí sắp xếp cán bộ, công chức cấp xã dôi dư và giải quyết chế độ chính sách theo phương án: Điều chuyển, bổ sung cho các xã còn thiếu; giải quyết nghỉ thôi việc theo quy định của Luật Cán bộ, công chức; nghỉ hưu trước tuổi; nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Nghị định số 26/2015/NĐ-CP; nghỉ tinh giản biên chế theo quy định tại Nghị định 108/2014/NĐ-CP. Theo các phương án trên, cán bộ, chính sách cấp xã dôi dư đều được hưởng các khoản trợ cấp theo quy định của Trung ương nếu đủ điều kiện.Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo việc giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư sẽ tiếp tục được thực hiện theo quy định hiện hành.
UBND tỉnh trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri sau kỳ họp thứ Tư - HĐND tỉnh khóa XVIII, nhiệm kỳ 2021 – 2026
Câu hỏi Trả lời
1. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường: (1) Bố trí nguồn kinh phí tiến hành công tác đo đạc, chỉnh lý bản đồ đất lâm nghiệp đồng thời cấp GCNQSD đất lần đầu, cấp đổi, cấp lại để đảm bảo chính xác, đồng bộ trong quá trình quản lý đất đai trên địa bàn; (2) Chỉ đạo các đơn vị tư vấn đo đạc đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành công tác đo địa chính các xã còn lại trên địa bàn huyện Mèo Vạc. Tiếp tục triển khai công tác kê khai, đăng ký cấp GCNQSD đất lần đầu, cấp đổi, cấp lại đối với các xã, thị trấn đã hoàn thành nghiệm thu bản đồ địa chính (cử tri Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Mèo Vạc)
2. Đề nghị UBND tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường đưa các điểm mỏ trên địa bàn huyện Mèo Vạc vào kế hoạch đấu giá năm 2022. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung ứng vật liệu xây dựng thông thường xây dựng công trình đường giao thông, xây dựng các công trình dân dụng, phục vụ chương trình nông thôn mới trên địa bàn huyện (Cử tri Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Mèo Vạc).
1a) Bố trí nguồn kinh phí tiến hành công tác đo đạc, chỉnh lý bản đồ đất lâm nghiệp đồngthời cấp GCNQSD đất lần đầu, cấp đổi, cấp lại để đảm bảo chính xác, đồng bộtrong quá trình quản lý đất đai trên địa bàn:
Để đảm bảo việc triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, Sở Tài nguyên và Môi trường đã có Văn bản số 1008/STNMT-ĐĐQH ngày 25/4/2022 gửi huyện Mèo Vạc chỉ đạo một số nội dung chính sau:
- Giao UBND các xã rà soát nhu cầu cần cấp giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp bổ sung và đo đạc chỉnh lý bản đồ đất lâm nghiệp trên địa bàn từng xã, thị trấn báo cáo về Phòng Tài nguyên và Môi trường tổng hợp.
- Giao phòng Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Phòng Tài chính, tổng hợp lập phương án thi công chỉnh lý bản đồ và đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu theo quy định gửi Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm định về mặt kỹ thuật.
- Sau khi có ý kiến thẩm định phương án kỹ thuật, UBND huyện Mèo Vạc bố trí kinh phí sự nghiệp địa chính hàng năm (Dành tối thiểu 10% số thu tiền sử dụng đất, thuê đất ngân sách huyện được hưởng theo phân cấp (NQ28/2021/NQ-HĐND) để thực hiện.
b) Chỉ đạo các đơn vị tư vấn đo đạcđẩy nhanh tiến độ để hoàn thành công tác đo địa chính các xã còn lại trên địa bànhuyện Mèo Vạc. Tiếp tục triển khai công tác kê khai, đăng ký cấp GCNQSD đấtlần đầu, cấp đổi, cấp lại đối với các xã, thị trấn đã hoàn thành nghiệm thu bản đồđịa chính.
UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh triển khai thực hiện Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý địa chính tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021-2030. Kết quả đã hoàn thành đo đạc bản đồ được 16/18 xã và đang triển khai việc cấp mới, cấp đổi GCNQSD đất cho các xã trên địa bàn huyện Mèo Vạc.
Ngày 14/01/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với UBND huyện Mèo Vạc và các đơn vị tư vấn bàn giải pháp đẩy nhanh tiến độ đo đạc bản đồ địa chính, đăng ký đất đai lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 21/3/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường tiếp tục có Văn bản số 666/STNMT-ĐĐ-QH về việc tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện dự án mời các đơn vị tư vấn thống nhất các nội dung triển khai yêu cầu các đơn vị tư vấn đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án theo đúng kế hoạch đề ra. Dự kiến hết năm 2022 hoàn thành công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính 18/18 xã; đến năm 2025 hoàn thành cấp mới bổ sung và cấp đổi GCNQSD đất cho huyện Mèo Vạc.
 2. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan liên quan và UBND các huyện, thành phố rà soát các điểm mỏ dự kiến đưa vào kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản năm 2022. Theo đó, Sở Tài nguyên và Môi trường đã có Văn bản số 2653/STNMT-KSN ngày 17/9/2021, số 421/STNMT-KSN ngày 22/02/2022 gửi các cơ quan liên quan và UBND các huyện, thành phố (trong đó có UBND huyện Mèo Vạc) để lấy ý kiến về các điểm mỏ dự kiến đưa vào kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản năm 2022. Sau khi tổng hợp ý kiến, UBND tỉnh sẽ xem xét quyết định cụ thể.
1. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo ngành điện đóng điện lưới quốc gia tại 04 thôn của xã Tiên Nguyên, hiện nay đã kéo xong đường dây điện (cử tri xã Tiên Nguyên, huyện Quang Bình).
2. Xây dựng Trạm biến áp để cấp điện lưới quốc gia cho 54 hộ dân thôn Quả Lủng và 65 hộ dân thôn Cá Ha xã Sính Lủng huyện Đồng Văn (Cử tri xã Sính Lủng, huyện Đồng Văn).
1. Hiện nay trên địa bàn xã Tiên Nguyên đang được xây dựng đầu tư ĐZ 35kV, TBA và ĐZ 0,4kV cho 04 thôn thuộc nguồn vốn do liên minh Châu Âu EU tài trợ, do BQL DAĐTXD công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh Hà Giang làm chủ đầu tư với quy mô như sau: Cấp điện cho thôn Hòa Bình, xã Tiên Nguyên: Đường dây 35 kV =2,147 km;Đường dây 0,4kV=6,273 km; 01 TBA 50KVA-35/0,4 kV.
- Cấp điện cho thôn Xuân Chiều, xã Tiên Nguyên: Đường dây 35 kV=3,072 km; Đường dây 0,4kV=5,287 km;01 TBA 50KVA-35/0,4kV.
- Cấp điện cho thôn Tây Sơn và thôn Cao Sơn, xã Tiên Nguyên: Đường dây 35kV=2,613km; Đường dây 0,4kV=5,31 km;01 TBA 100KVA-35/0,4kV.
Hiện nay công trình đã được thi công xong và đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục pháp lý để bàn giao và đóng điện. Dự kiến đóng điện trong tháng 6/2022
 2. Hiện trạng hệ thống cấp điện trên địa bàn xã Sính Lủng như sau:
- Hiện nay trên địa bàn xã Sính Lủng đã được đầu tư:Đường dây 35kV: 6,3 km; Đường dây hạ áp: 3,9 km; TBA phân phối: 04 trạm =281,5 kVA. Số thôn đã được đầu tư công trình điện: 5/9 thôn đạt tỷ lệ 55,5%.  Số thôn chưa được đầu tư công trình điện là 04 thôn với tổng số hộ là 277
hộ, trong đó có 02 thôn tự kéo điện để sử dụng theo hình thức hộ dùng chung 158
hộ gồm: Thôn Sính Lủng = 104 hộ; Thôn Là Chúa Tủng = 54 hộ;
- Số thôn chưa có điện là 02 thôn với tổng số hộ là 119 hộ gồm: Thôn Cá Ha có 65 hộ; Thôn Quả Lủng có 54 hộ.
Ngày 02/10/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 1775/QĐ-UBND phê duyệt điều chỉnh Dự án cấp điện vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào thiểu số chưa có điện lưới Quốc gia tỉnh Hà Giang, giai đoạn (2013-2020), trong đó, thôn Sính Lủng đã có trong danh mục. Hiện nay, để triển khai thực hiện. UBND tỉnh đang triển khai các chương trình tiếp cận các nguồn vốn từ NSTW, vốn vay ODA, vốn do EU tài trợ, vốn vay ưu đãi và các nguồn vốn khác. Sau khi có kết quả, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Chủ đầu tư thực hiện việc đầu tư cấp điện chocác thôn bản chưa có điện lưới quốc gia thuộc xã nêu trên.
1. Đề nghị UBND tỉnh xem xét hỗ trợ kinh phí: Theo Quyết định số:861/QĐ TTg, ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểusố và miền núi giai đoạn 2021-2025, thì từ tháng 6 năm 2021, thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc thuộc khu vực III.Theo Điều 6, Nghị định số: 76/2019/NĐ-CP, ngày 08/10/2019 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có quy định: “Đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này khi nhận công tác lần đầu ởcơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khănđược hưởng trợ cấp như sau:Trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương cơ sở tại thời điểm nhận công tác ởvùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...”.
Đối chiếu với các quy định trên, thì cán bộ, CCVC đang công tác tại địa bànthị trấn Mèo Vạc được hưởng trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương cơ bản.
Vì vậy, cử tri thị trấn Mèo Vạc kiến nghị với Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Tàichính tỉnh sớm xem xét hỗ trợ phần kinh phí trên cho cán bộ, CCVCđang công tác tại địa bàn thị trấn Mèo Vạc theo quy định(cử tri Thị trấn Mèo Vạc,huyện Mèo Vạc).
2. Đề nghị HĐND tỉnh quan tâm tăng các mức chi theo:Nghịquyết số 38/2021/NQ-HĐND ngày 12/10/2021 của HĐND tỉnh về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 28/2016/NQHĐND ngày 21/7/2016 và Điều 1 Nghị quyết số 16/2019/NQ-HĐND ngày19/7/2019 của HĐND tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2016 - 2021. Tại mục IV: Chi cho các hoạt động của HĐND, đề nghị tăng các mức chi: + Mức chi tiền ăn cơm cho các đại biểu tại Hội nghị TXCT, điểm giám sát chế độ bồi dưỡng TXCT cấp xã hiện nay là 500.000đ; + Mức bồi dưỡng cho các đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri, thành viên dự họp, thư ký đoàn giám sát, khảo sát mỗi đại biểu hiện nay là 50.000đ (cử tri xã Đông Hà, huyện Quản Bạ).
3. Đề nghị UBND tỉnh tham mưu, trình HĐND tỉnh sửa đổi Nghị quyết số35/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh tại điểm d khoản 1 điều 3 về hỗ trợ đối tượng Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đang sống tại địa bàn không thuộc xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn đề nghị chỉ hỗ trợ theo kế hoạch hóa gia đình (không hỗ trợ hộ sinh con thứ 3 trở lên) (cử tri xã Đông Hà,huyện Quản Bạ)
4. Đề nghị tỉnh kéo dài thời gian hỗ trợ lãi suất vay vốn đối với các tổ chức, cá nhân đã được vay theo Nghị quyết số 29/2018/NQ-HĐND ngày 07/12/2018 của HĐND tỉnh về ban hành chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa trên địa bàn tỉnh, do năm 2021 - 2022 tổ chức, cá nhân đến thời hạn phải trả nợ, tuy nhiên do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 và các nguyên nhân khác nên người dân còn gặp nhiều khó khăn chưa có khả năng trả nợ(Cử tri xã Cốc Rế, huyện Xín Mần)
5. Đề nghị UBND tỉnh quan tâm sớm mở chính thức lối mở mốc 504 xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc giáp với hương Bách Đô, huyện Nà Pô, Khu tự trị dân tộcChoang Quảng Tây, Trung Quốc phục vụ giao lưu trao đổi hàng hóa giữa người dân hai nước (cử tri xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc)
1. Bộ Tài chính đã có Văn bản số 2404/BTC-TCCB ngày 14/3/2022 gửi Bộ Nội vụ có ý kiến đối với vấn đề nêu trên.Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay Bộ Nội vụ chưa có văn bản phúc đáp gửi Bộ Tài chính.Sau khi có văn bản phúc đáp của Bộ Nội vụ, trường hợp đối tượng nêu trên được hưởng chế độ trợ cấp lần đầu theo quy định, căn cứ báo cáo về đối tượng đượchưởng chính sách hỗ trợ của UBND cấp huyện, UBND tỉnh sẽ bổ sung kinh phí chi trả chế độ cho các huyện, trong đó có huyện Mèo Vạc.
2. UBND tỉnh đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh giao Ban Kinh tế - Ngân sách trả lời kiến nghị của cử tri xã Đông Hà, huyện Quản Bạ theo đúng thẩm quyền.
3. Căn cứ Kết luận số 92-KL/TW ngày 05/11/2020 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khóa XI một số vấn đề về chính sách trợ giúp xã hội giai đoạn 2012-2020 trong thời gian tới đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hà Giang khoá XVII cụ thể hoá trong Chương trình hành động số 05-CT/TU ngày 04/02/2021. Căn cứ Điều 32 Luật trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam được bảo đảm an sinh xã hội theo quy định của pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nơi trẻ em sinh sống và điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em”. Căn cứ Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
  - Căn cứ thực tiễn của tỉnh Hà Giang: Trong nhiều năm qua, khi chưa có chính sách trợ giúp xã hội cho nhóm trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, tình trạng sinh con thứ 3 trở lên vẫn khá phổ biến ở các hộ gia đình trên địa bàn tỉnh, thực tế này khẳng định, tình trạng sinh con vượt kế hoạch không phải do chính sách trợ giúp xã hội, đồng thời tình trạng này cũng cho thấy, nếu không có chính sách trợ giúp cho trẻ em thì những trẻ em trong hộ nghèo và hộ cận nghèo rất dễ rơi vào tình trạng nhẹ cân và thấp còi (một hiện tượng khá phổ biến trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện nay). Thực tiễn này đã được các cơ quan chuyên môn của nhà nước cũng như các tổ chức quốc tế nghiên cứu rất kỹ trước khi kiến nghị Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp xã hội, trong đó có chính sách trợ giúp xã hội cho nhóm trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
  - Xuất phát từ các căn cứ trên, Nghị quyết số 35/2021/NQ-HĐND ngày 16/7/2021 của HĐND tỉnh Hà Giang quy định đối tượng khó khăn trên địa bàn tỉnh Hà Giang được hưởng chính sách trợ giúp xã hội được ban hành đảm bảo đúng chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang; trong đó có đối tượng trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đang sống tại địa bàn không thuộc xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn (như trẻ em dưới 3 tuổi thuộc hộ nghèo và hộ cận nghèo của xã Đông Hà, huyện Quản Bạ), nhằm hướng đến mục tiêu đảm bảo “quyền trẻ em” theo quy định pháp luật, tạo điều kiện hỗ trợ trẻ em, đặc biệt là trẻ em nghèo, cận nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phát triển thuận lợi, bình đẳng như những trẻ em khác trong xã hội.
 - Đề nghị Cấp uỷ, chính quyền xã Đông Hà, huyện Quản Bạ quan tâm quán triệt và phổ biến các chính sách trợ giúp xã hội mang tính mới và đột phá, đảm bảo các quyền của trẻ em, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo của xã Đông Hà phát triển bình đẳng cả về thể chất và tinh thần như những trẻ em khác trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.
4.Tổng số khách hàng vay vốn theo Nghị quyết số 29/2018/NQ-HĐND tại các xã trên địa bàn huyện Xín Mần là 05 khách hàng, sốtiền vay là 1.120 triệu đồng, trong đó tạixã Cốc Rế không có khách hàng vay vốn.
- Tổng số khách hàng vay vốn theo Nghị quyết số 209/2015/NQ-HĐND và Nghị quyết số 86/2017/NQ-HĐND tại các xã trên địa bàn huyện Xín Mần là 622 khách hàng, số tiền cho vay 46.020 triệu đồng. Trong đó có 45 khách hàng vay vốn có địa chỉ tại xã Cốc Rế với tổng số tiền vay 3.020 triệu đồng. Dư nợ đến ngày 31/3/2022 (cập nhật số liệu mới đến tháng 5) là 225,151 triệu đồng với 07 khách hàng, trong đó không có khách hàng có địa chỉ tại xã Cốc Rế còn dư nợ. Đối với 07 khách hàng này hiện nay đã trả hết nợ.
5. Những năm qua, UBND tỉnh Hà Giang rất quan tâm đến việc thúc đẩy mở, nâng cấp các cửa khẩu, lối mở trên địa bàn tỉnh nói chung cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế biên mậu giữa tỉnh Hà Giang (Việt Nam) với tỉnh Vân Nam và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) nói riêng. Trong đó, năm 2018, 2019, UBND tỉnh đã chỉ đạo Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh (là Cơ quan Thường trực Tiểu ban công tác cửa khẩu tỉnh) chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan tiến hành khảo sát thực tế, hoàn thiện hồ sơ thủ tục đề nghị Chính phủ cho chủ trương đồng ý mở lối mở Lũng Làn (Mốc 504), xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang theo quy định.
- Ngày 30/9/2019, UBND tỉnh Hà Giang có Tờ trình số 72/TTr-UBND, kèm theo hồ sơ gửi Văn phòng Chính phủ về việc mở mới lối mở Lũng Làn (Mốc 504), xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Đến ngày 11/11/2019, Văn phòng Chính phủ có Phiếu chuyển số 1690/PB-VPCP gửi UBND tỉnh Hà Giang, nội dung: "Đề nghị UBND tỉnh Hà Giang thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục việc mở, nâng cấp cửa khẩu phụ, lối mở biên giới quy định tại Nghị định 112/2014/NĐ-CP ngày 21/11/2014 của Chính phủ quy định về quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền").
- Đặc biệt, ngày 22/3/2019 tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, UBND tỉnh Hà Giang (Việt Nam) và Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) ký "Thoả thuận mở lối mở và chợ biên giới Lũng Làn (Việt Nam) - Lộng Bình (Trung Quốc) tại khu vực Mốc 504 biên giới Việt - Trung". Tuy nhiên, từ năm 2020 đến nay, do ảnh hưởng của tình hình dịch Covid-19, các cửa khẩu phụ, lối mở trên địa bàn tỉnh tạm dừng hoạt động để thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh lây lan qua biên giới, cửa khẩu. Theo đó, việc triển khai các hoạt động mở, nâng cấp cửa khẩu, lối mở trên địa bàn tỉnh tạm dừng triển khai. Do đó, đến nay việc mở chính thức lối mở Lũng Làn (Mốc 504), xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang đang dừng lại ở bước hoàn thiện thủ tục để trình Thủ tướng Chính phủ cho chủ trương thực hiện theo quy định tại Nghị định 112/2014/NĐ-CP ngày 21/11/2014 của Chính phủ.
Hiện nay, UBND tỉnh vẫn đang tiếp tục tích cực thực hiện và hoàn thiện các thủ tục theo quy định để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc mở lối mở Lũng Làn (Việt Nam) - Lộng Bình (Trung Quốc), Cụ thể:
- Ngày 25/02/2022 tại Chương trình Gặp gỡ đầu xuân giữa các Bí thư Tỉnh ủy và Hội nghị lần thứ 13 Uỷ ban công tác liên hợp giữa các tỉnh Cao Bằng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang (Việt Nam) và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) cùng ký kết Biên bản ghi nhớ Hợp tác hữu nghị giữa Tỉnh ủy các tỉnh Cao Bằng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang, Đảng Cộng Sản Việt Nam và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng cộng sản Trung Quốc (giai đoạn 2022 - 2026), trong đó hai Bên nhất trí tiếp tục đẩy nhanh tiến độ mở, nâng cấp các cặp cửa khẩu, lối mở biên giới theo các thỏa thuận đã ký kết. Đây là cơ sở, tiền đề tiếp tục thúc đẩy mở lối mở Lũng Làn (Việt Nam) - Lộng Bình (Trung Quốc).
- Ngày 02/12/2021 UBND tỉnh có văn bản số 4853/UBND-NCPC giao nhiệm vụ cho Tiểu ban công tác cửa khẩu phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan thúc đẩy nhanh việc trình Chính phủ phê duyệt mở lối mở Lũng Làn - Lộng Bình.
Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh hoàn thiện hồ sơ thủ tục gửi các Bộ, ngành Trung ương (lần 3) về việc tham gia ý kiến đối với mở mới lối mở Lũng Làn (Mốc 504), xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang (Công văn số 811/UBND-NCPC, ngày 25/3/2022 của UBND tỉnh).
Tới đây, sau khi các Bộ, ngành Trung ương có văn bản trả lời; UBND tỉnh sẽ tiếp tục hoàn chỉnh hồ sơ thủ tục trình Chính phủ cho chủ trương đồng ý mở lối mở Lũng Làn (Mốc 504), xã Sơn Vĩ, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Khi Chính phủ cho chủ trương đồng ý, UBND tỉnh sẽ ban hành Quyết định mở chính thức lối mở Lũng Làn - Lộng Bình (Mốc 504) theo quy định.

1.Đề nghị UBND tỉnh quan tâm đầu tư nâng cấp, sửa chữa tuyến đường từ ngã ba QL 280 vào trung tâm xã Đường Hồng (hơn 7 km), do hiện nay tuyến đường này đã xuống cấp, hư hỏng nhiều gây khó khăn trong việc đi lại của nhân dân (cử tri xã Đường Hồng, huyện Bắc Mê)
2. Đề nghị UBND tỉnh xem xét sửa chữa cầu treo xã Đông Hà, huyện Quản Bạ. Lý do: Cầu đã xuống cấp, ảnh hưởng đến giao thương hàng hóa và sự an toàn của người dân khi đi lại(cử tri xã Đông Hà, huyện Quản Bạ)
3. Đề nghị tỉnh tiếp tục đầu tư xây dựng tuyến đường bê tông nối từ thôn Cá Ha xã Sính Lủng đi thôn Sà Nhìa Tủng xã Hố Quáng Phìn có chiều dài khoảng1.500m theo Đề án đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn2021 - 2025(Cử tri xã Sính Lủng, huyện Đồng Văn)
4. Đề nghị UBND tỉnh xem xét, quan tâm sớm đầu tư: Xây dựng nâng cấp bãi xử lý rác thải sinh hoạt tại trung tâm huyện Mèo Vạc, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật về môi trường; hỗ trợ kinh phí xây dựng lò đốt rác thải sinh hoạt để xử lý rác thải được thu gom tại các xã trên địa bàn huyện (cử tri thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc)
5. Đề nghị UBND tỉnh xem xét, quan tâm sớm đầu tư: Xây kè chống sạt lở đầu trạm kiểm soát biên phòng Thàng Tín đường ra mốc 227 (khu giãn dân chợ biên mậu Thàng Tín) (cử tri Xã Thàng Tín, huyện Hoàng Su Phì)
6. Đề nghị UBND tỉnh xem xét, quan tâm sớm đầu tư: Mở mới và đổ bê tông tuyến đường đi mốc 225, hạng mục: Đường bê tông 2,5m, nền đường mở mới 4m, chiều dài 5km, tạo điều kiện thuận lợi đường tuần tra biên giới. Đổ bê tông tuyến đường từ xã Thàng Tín đi xã Chiến Phố loại đường rộng 5,8m với chiều dài 2,5km (cử tri Xã Thàng Tín, huyện Hoàng Su Phì)
7. Đề nghị UBND tỉnh xem xét, quan tâm sớm đầu tư: Xây mới các trụ sở xã trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, hiện đang xuống cấp để đáp ứng nhu cầu sử dụng hiện nay (cử tri các xã trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì)
8. Đề nghị UBND tỉnh xem xét triển khai đầu tư xây dựng nhà bán trú Trường PTDTBT Tiểu học Tiên Nguyên để dồn về 01 điểm, hiện nay Trường PTDTBT Tiểu học có 2 khu, diện tích đất còn lại của Trường PTDTBT Tiểu học sẽ điều chuyển cho Trường Mầm non và Trường PTDTBT THCS để đảm bảo diện tích đạt tiêu chí Trường chuẩn (cử tri xã Tiên Nguyên, huyện Quang Bình)
9. Đề nghị UBND tỉnh sớm quan tâm việc cấp đất và đầu tư xây dựng Nhà văn hóa cho nhân dân Tổ 6, phường Ngọc Hà để đảm bảo sinh hoạt cho bà con nhân dân trong Tổ (cử tri phường Ngọc Hà, TP Hà Giang)
1. Ngày 24/01/2022, UBND tỉnh đã ban hành Văn bản số234/UBND-KTHT về đồng ý chủ trương, cho phép UBND huyện Bắc Mê triển khai các trình tự, thủ tục theo quy định hiện hành, thực hiện dự án: Cải tạo, sửa chữa tuyến đường Nà Phiêng (Km18 QL 280) đi UBND xã Đường Hồng. UBND huyện Bắc Mê đã giao Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện chủ trì, phối hợp với các phòng, ban chức năng của huyện và UBND xã ĐườngHồng tổ chức triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
 2. UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan rà soát, kiểm tra thực tế cầu treo tại xã Đông Hà. Kết quả như sau: Cầu treo xã Đông Hà được thi công và đưa vào sử dụng từ năm 2013, chiều dài cầu là 131m, khẩu độ nhịp chính là 81m, chiều rộng mặt cầu là 2,5m; trụ và tháp cầu bằng bê tông cốt thép; hệ thống dây treo bằng thép; bản mặt cầu bằng tôn thép có gân chống trơn. Công năng: Phục vụ hoạt động di chuyển của người và xe thô sơ, xe máy. Hiện trạng của cầu: Mặt cầu bị võng và nghiêng sang một bên; một số thanh lan can, tấm bản mặt cầu và 03 thanh liên kết các dầm ngang bị bong bật mối hàn.
- UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quản Bạ xây dựng phương án tu sửa, thực hiện trong Quý II/2022.
 3. Hiện nay, đoạn đường nối từ thôn Cá Ha, xã Sính Lủng đi Phàn Nhìa Tủng, xã Hố Quáng Phìn là đường mòn có chiều dài khoảng 1.500m với nền đường từ 1-3m (Đoạn tại thôn Cá Ha, xã Sính Lủng dài 800m, nền đường 2,5-3m; đoạn tại thôn Phàn Nhìa Tủng, xã Hố Quáng Phìn dài 700m nhưng nềnđường chỉ 1-1,2m). Vì vậy, việc đầu tư làm đường bê tông thôn Cá Ha, xã Sính Lủng đi Phàn Nhìa Tủng, xã Hố Quáng Phìn là rất cần thiết.
- UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Đồng Văn đưa công trình Đường liên xã SínhLủng đi Sảng Tủng - toàn tuyến 5,5km (đã bao gồm đoạn theo kiến nghị của cửtri) vào danh mục công trình khởi công mới thuộc chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2022-2025 trên địa bàn huyện Đồng Văn.
 4. Công trình xây dựng nâng cấp bãi xử lý rác thải sinh hoạt tại trung tâm huyện Mèo Vạc đã phù hợp với quy hoạch sử dụng đất (bổ sung) đến năm 2020 và quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 huyện Mèo Vạc, đã có trong kế hoạch sử dụng đất năm 2020, năm 2021 và năm 2022 huyện Mèo Vạc và được UBND tỉnh phê duyệt. Tuy nhiên, kinh phí đầu tư quá lớn so với nguồn lực hiện tại, đặc biệt các năm gần đây do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nguồn kinh phí còn hạn chế nên chưa thể bố trí để đầu tư xây dựng công trình.
- Việc đầu tư xây dựng lò đốt rác, xử lý rác thải hiện nay là rất cần thiết để bảo vệ môi trường, nâng cao sức khỏe của nhân dân. UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Mèo Vạc nghiên cứu, bố trí nguồn vốn đầu tư theo lộ trình trong những năm tiếp theo; đồng thời, chỉ đạo UBND các xã tìm địa điểm khu xử lý rác thải và đưa vào Đồ án quy hoạch chung xây dựng của xã giai đoạn 2020-2030.
5. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư của tỉnh rất khó khăn và phụ thuộc nhiều vào ngân sách trung ương, trong khi nhu cầu đầu tư xây dựng của các địa phương rất lớn. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Hoàng Su Phì chủ động kiểm tra, kịp thời có giải pháp để đảm bảo an toàn của Trạm kiểm soát biên phòng Thàng Tín đường ra mốc 227. Đồng thời, UBND huyện Hoàng Su Phì đã chỉ đạo các phòng ban chuyên môn tổ chức kiểm tra thực tế hiện trạngvàxác định tính cấp bách của công trình. UBND tỉnh sẽ rà soát, báo cáoBan chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai về việc bố trí nguồn kinh phí ĐTXD công trình trên. Trước mắt, UBND huyện Hoàng Su Phì đã chỉ đạo UBND xã Thàng Tín và đơn vị kiểm soát biên phòng triển khai khắc phục và nắn dòng chảy không cho nước mưa chảy trực tiếp xuống những vị trí sạt lở.
6. Hiện nay, do nguồn vốn đầu tư xây dựng còn hạn hẹp. Trước mắt, UBND tỉnh đã giao UBND huyện Hoàng Su Phì chỉ đạo các xã tự nâng cấp, sửa chữa đảm bảo đi lại an toàn; đồng thời chỉ đạo ngành chuyên môn khảo sát, tính toán cụ thể, đánh giá mức độ cấp bách để báo cáo UBND tỉnh xem xét. Hàng năm, chủ động đưa vào kế hoạch Chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình mục tiêu khác để triển khai thực hiện. UBND tỉnh sẽ tiếp tục kiến nghị với Quân khu II - Bộ Quốc phòng xem xét hỗ trợ đầu tư để đảm bảo thuận tiện cho công tác tuần tra, kiểm soát biên giới của lực lượng chức năng cũng như đi lại, giao thương, trao đổi hàng hóa của nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Khi bố trí được nguồn vốn sẽ triển khai thực hiện theo thứ tự ưu tiên.
7. UBND tỉnh đã giao UBND huyện Hoàng Su Phì kiểm tra, rà soát quy mô và tổng mức đầu tư đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng, chủ động cân đối, bố trí nguồn vốn đầu tư trong trường hợp cần thiết; chỉ đạo các phòng, ban chuyên môn phối hợp với UBND các xã tiến hành kiểm tra, rà soát quy mô và tổng mức đầu tư đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng hiệu quả. Đồng thời xem xét, cân đối bố trí nguồn vốn ngân sách huyện và lồng ghép các nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2021-2025 để triển khai đầu tư theo thứ tự ưu tiên. 
8. UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quang Bình tiến hành khảo sát nhu cầu thực tế cơ sở vật chất của trường. Sau khi tiến hành rà soát, hiện nay khu nhà bán trú của Trường PTDTBT Tiểu học Tiên Nguyên nằm trên phần diện tích của Trường Mầm non Tiên Nguyên, gây khó khăn cho công tác quản lý.Đồng thời, để đảm bảo diện tích cho Trường Mầm non và Trường PTDTBT THCS Tiên Nguyên theo tiêu chí trường chuẩn, UBND tỉnh đã chỉ đạo UBND huyện Quang Bình xem xét xây dựng thêm 01 nhà 2 tầng gồm 8 phòng cho Trường PTDTBT Tiểu học Tiên Nguyên từ nguồn vốn Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, lồng ghép với nguồn vốn Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Sau khi được trung ương cấp kinh phí, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND huyện Quang Bình triển khai xây dựng công trình theo kế hoạch, lộ trình đã đề ra.
9. Khu đất nhân dân Tổ 6, phường Ngọc Hà đề nghị được cấp để xây dựng Nhà văn hoá riêng của tổ thuộc thửa đất số 134, tờ bản đồ giải thửa số 4b, phường Ngọc Hà, thành phố Hà Giang (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD184101 do UBND tỉnh Hà Giang cấp ngày 02/8/2007 cho Công ty cổ phần Xi măng Hà Giang, nay là Công ty cổ phần Tập đoàn phát triển Hà Giang theo hình thức thuê đất trả tiền hằng năm) với diện tích 6.630,5m2.
- UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành và các đơn vị có liên quan xử lý tồntại dự án của Công ty cổ phần Tập đoàn phát triển Hà Giang trên cơ sở báo cáo của Tổ công tác liên ngành.Sau khi giải quyết xong, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo UBND thành phố Hà Giang rà soát, báo cáo về việc xem xétcho chủ trương bố trí một phần diện tích đất trong khu đất nêu trên để giao cho UBND phường Ngọc Hà xây dựng nhà văn hoá Tổ 6, phường Ngọc Hà.
1. Đề nghị tỉnh cấp hệ thống truyền thanh không dây cho xã Cốc Rế và các xã trên địa bàn huyện Xín Mần để nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước tới Nhân dân (Cử tri xã Cốc Rế, huyện Xín Mần).
2. Đề nghị hỗ trợ cung cấp lắp đặt Wifi tại các thôn vùng sâu vùng xa,vùng ĐBKK để phục vụ cho ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng theo yêu cầu Chương trình chuyển đổi số, giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Hà Giang (cử tri xã Đường Hồng, Đường Âm, huyện Bắc Mê).
3. Đề nghị UBND tỉnh khảo sát lắp đặt trạm BTS để phủ sóng điện thoại cho nhân dân thôn Thượng Bình và Hạ Bình, xã Tiên Nguyên (cử tri xã Tiên Nguyên, huyện Quang Bình).
1. Triển khai Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với Văn phòng điều phối nông thôn mới tỉnh rà soát và đưa hệ thống Đài truyền thanh huyện Xín Mần vào Kế hoạch thiết lập, nâng cấp Đài truyền thanh internet có ứng dụng công nghệ thông tin - viễn thông trên địa bàn tỉnh. Sau khi được Trung ương cấp kinh phí triển khai Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông triển khai thực hiện theo Kế hoạch.
 2. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thôn phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn tỉnh tiến hành kiểm tra chất lượng dịch vụ mạng Internet không dây trên địa bàn xã Đường Hồng, xã Đường Âm huyện Bắc Mê (ngày 29/4/2022). Kết quả cụ thể như sau:
- Mạng Viettel:
+ Hạ tầng mạng lưới: Xã Đường Âm có 02 trạm phát sóng di động/11 thôn. Trong đó, 01 trạm đặt tại Trung tâm xã và 01 trạm đặt tại thôn Nà Phiêng, tỷ lệ phủ sóng đạt 75%.Xã Đường Hồng có 01 trạm phát sóng di động/10 thôn, đặt tại khu vực trung tâm xã, tỷ lệ phủ sóng đạt 80%.
+ Chất lượng dịch vụ:Tại xã Đường Âm có sóng 2G; có 08/11 thôn có sóng 3G, 4G(tuy nhiên, chất lượng sóng 3G, 4G không ổn định); có 01/11 thôn (thôn Độc Lập) có dịch vụ băng rộng cố định.Tại xã Đường Hồng có sóng 2G; có 05/10 thôn có sóng 3G; 04/10 thôn có sóng 4G (tuy nhiên, chất lượng sóng 3G, 4G không ổn định). Có 01/10 thôn (thôn Khuổi Hon) có dịch vụ băng rộng cố định.
- Mạng Vinaphone: Hạ tầng mạng lưới: Tại xã Đường Âm hiện có 02 cơ sở hạ tầng trạm có 06 thiết bị phát sóng, tỷ lệ phủ sóng đạt 95%.Tại xã Đường Hồng hiện có 01 cơ sở hạ tầng trạm có 06 thiết bị phát sóng, tỷ lệ phủ sóng đạt 90%.Cả 02 xã trên VNPT đã cung cấp các dịch vụ băng rộng cố định đến trung tâm xã, phát triển dịch vụ băng rộng cố định tới một số thôn có nhu cầu.
+ Chất lượng dịch vụ:Tại xã Đường Âm thu được sóng 2G; có 10/11 thôn có sóng 3G; có 03/11 thôn có sóng 4G (tuy nhiên, chất lượng sóng 3G, 4G không ổn định); có 02/11 thôn (thôn Độc Lập và thôn Nà Phiêng) có dịch vụ băng rộng cố định. Tại xã Đường Hồng thu được sóng 2G; có 08/10 thôn có sóng 3G; có 06/10 thôn có sóng 4G (tuy nhiên, chất lượng sóng 3G, 4G không ổn định); có 03/10 thôn có dịch vụ băng rộng cố định.
Hiện nay, các doanh nghiệp viễn thông đã xây dựng phương án bổ sung các trạm phát sóng như sau:
- Xã Đường Âm: Chưa có kế hoạch triển khai.
- Xã Đường Hồng: Xây dựng trạm HGG 0377-12 tại thôn Nà Khâu, Khuổi Mạ để xử lý sóng kém.
Trong thời gian tới, Sở Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông triển khai bổ sung các trạm phát sóng để nâng cao chất lượng dịch vụ mạng Internet không dây trên địa bàn xã Đường Hồng, xã Đường Âm huyện Bắc Mê nói riêng và trên địa bàn toàn tỉnh nói chung.
3. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn tỉnh rà soát hiện trạng phủ sóng điện thoại tại thôn Thượng Bình và Hạ Bình, xã Tiên Nguyên. Tuy nhiên, do địa hình núi cao, hiểm trở nên các doanh nghiệp viễn thông không thể thực hiện việc điều chỉnh vùng phủ đối với các trạm phát sóng xung quanh. Hiện tại đang triển khai phương án bổ sung trạm phát sóng sau:
- Viettel Hà Giang: Xây dựng trạm HGG0493 tại thôn Hạ Bình để xử lý sóng kém.
- Viễn thông Hà Giang:Lập quy hoạch bổ sung trạm BTS tại thôn Thượng Bình, Hạ Bình thuộc xã Tiên Nguyên huyện Quang Bình trong giai đoạn 2023 – 2025; Tăng cường tiếp thị, quảng bá, phát triển dịch vụ băng rộng cố định tại các thôn, tổ chức triển khai kéo cáp quang đến các khu vực thôn/bản khi có nhu cầu.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
Địa chỉ: Số 01, Đường 26/3 - Phường Nguyễn Trãi - Thành phố Hà Giang - Tỉnh Hà Giang
Điện thoại: 02193.860.778 - Fax: 02193.860.778
Email: bbt.dbnd@hagiang.gov.vn hoặc tttthdndhg@gmail.com