.jpg)
Toàn cảnh thảo luận tại tổ
Tại
phiên thảo luận, các đại biểu đã tham gia thảo luận tích cực, đóng góp nhiều ý
kiến xác đáng, thể hiện sự đồng thuận cao về sự cần thiết phải ban hành Nghị
quyết, nhằm thiết lập một cơ chế linh hoạt, hiệu quả và kịp thời trong xử lý
các điểm nghẽn pháp lý – vốn đang là lực cản lớn trong công tác quản lý và phát
triển kinh tế - xã hội. Đồng thời nhất trí, việc Quốc hội ban hành Nghị quyết
chuyên đề có giá trị pháp lý, là bước đi đúng đắn trong bối cảnh hệ thống pháp
luật ngày càng phức tạp, nhiều chồng chéo, mâu thuẫn và có không ít khoảng trống
pháp lý chưa được kịp thời bổ sung. Dự thảo Nghị quyết lần này đã xác định rõ
tiêu chí, nguyên tắc, phương án cũng như quy trình xử lý, thể hiện sự tiếp cận
thực tiễn và giải quyết vấn đề một cách chủ động, quyết liệt. Đặc biệt, cơ chế
phối hợp giữa Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật để xử lý vướng mắc được nhiều đại biểu đánh giá là
tiến bộ, rõ ràng và có tính khả thi cao.
Tuy
nhiên, để đảm bảo tính chặt chẽ và không vượt khỏi khuôn khổ Hiến pháp, một số
đại biểu đề nghị cần làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết, tránh việc
áp dụng cơ chế này cho các nội dung liên quan đến quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước, các quy định về tội phạm
và hình phạt... Các đại biểu cũng nhấn mạnh, Nghị quyết cần được hiểu là công cụ
mang tính tạm thời, khẩn cấp; giải pháp căn cơ, bền vững vẫn là việc sửa đổi, bổ
sung kịp thời các luật và nghị quyết hiện hành để đảm bảo tính ổn định, thống
nhất của hệ thống pháp luật.
Về
phương án xử lý, các đại biểu cơ bản đồng thuận với việc giao Chính phủ xử lý
các vướng mắc trong các văn bản do mình trình, còn UBTVQH xử lý các nội dung
không do Chính phủ trình. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hợp hiến, nhiều ý kiến đề
nghị bổ sung quy định Chính phủ phải báo cáo và xin ý kiến UBTVQH trước khi xử
lý các nội dung có khả năng liên quan đến Hiến pháp.
Về
quy trình ban hành văn bản, một số ý kiến cho rằng cần thiết kế theo hướng đơn
giản hóa, rõ ràng, minh bạch nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát quyền lực và tính khả
thi trong tổ chức thực hiện. Đồng thời, để tránh lạm dụng cơ chế đặc thù, dự thảo
cần quy định thời hạn xử lý cụ thể và gắn trách nhiệm của từng cơ quan liên
quan.
Liên
quan đến hiệu lực thi hành, nhiều ý kiến thống nhất đề xuất Nghị quyết có hiệu
lực ngay từ ngày được Quốc hội thông qua và kéo dài đến hết ngày 28/2/2027, nhằm
đảm bảo lộ trình rà soát, sửa đổi pháp luật hiện hành. Đặc biệt, năm 2025 phải
hoàn thành cơ bản việc tháo gỡ các “điểm nghẽn” pháp lý như mục tiêu Nghị quyết
số 66-NQ/TW của Trung ương đã đặt ra.
.jpg)
Đồng chí Lý Thị Lan, Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn
ĐBQH tỉnh Hà Giang tổng hợp các ý kiến, kiến nghị thảo luận
Kết thúc
phiên thảo luận tổ, đồng chí Lý Thị Lan, Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH
tỉnh Hà Giang đã tiếp thu, tổng hợp các ý kiến thảo luận tại tổ để kiến nghị tiếp
tục hoàn thiện dự thảo nghị quyết, đảm bảo khi được thông qua, Nghị quyết sẽ là
công cụ pháp lý quan trọng, góp phần tháo gỡ các vướng mắc đang cản trở tiến
trình phát triển, tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách thể chế và thúc đẩy
phát triển nhanh, bền vững.