Luật gồm bảy chương, 48 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2026,
với phạm vi điều chỉnh rộng khắp từ “hóa chất”, “hoạt động hóa chất” đến “phát
triển ngành công nghiệp hóa chất”, “thông tin hóa chất”, “hóa chất nguy hiểm
trong sản phẩm, hàng hóa” và “an toàn, an ninh trong hoạt động hóa chất”. Báo
cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phản ánh đầy
đủ quan điểm của các ĐBQH và chuyên gia, từ việc làm rõ định nghĩa “hóa chất” –
gồm chất, hỗn hợp chất tự nhiên hoặc khai thác, tạo ra bởi con người, đến mở rộng
khái niệm “hóa chất nguy hiểm” theo nguyên tắc phân loại của Bộ trưởng Bộ Công
Thương, bảo đảm tính thống nhất với GHS (Globally Harmonized System) và Luật Bảo
vệ môi trường năm 2020.

Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang tham gia biểu thông qua Luật Hoá chất
(sửa đổi).
Luật Hóa chất (sửa đổi) khẳng định chiến lược phát triển
ngành công nghiệp hóa chất là định hướng dài hạn, giai đoạn 10 năm tầm nhìn 30
năm, do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Điều 4 quy định chiến lược phải phù hợp
với chính sách của Nhà nước, quy hoạch tổng thể quốc gia, đồng thời bảo đảm quốc
phòng, an ninh và phát triển bền vững. Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển
và các lĩnh vực ưu tiên được xác định rõ ràng, trong đó nhấn mạnh ưu tiên phát
triển hóa chất thân thiện môi trường, hóa chất có giá trị kinh tế cao và đổi mới
công nghệ theo nguyên tắc “hóa học xanh”. Đây là lần đầu tiên Luật Hóa chất ghi
nhận 12 nguyên tắc hóa học xanh – từ thiết kế giảm thiểu, thay thế hóa chất độc
hại, sử dụng hiệu quả nguyên liệu, tiết kiệm năng lượng, đến tối ưu hóa quy
trình sản xuất – nhằm định hình nền tảng pháp lý cho chuyển đổi mô hình sản xuất
theo hướng xanh, bền vững.
Về quản lý hoạt động hóa chất, Luật tiếp tục quy định đầy đủ
các khái niệm và đối tượng áp dụng: từ nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất, kinh
doanh, vận chuyển, tồn trữ, sử dụng đến xử lý chất thải hóa chất. So với luật
hiện hành, Luật sửa đổi đã chuẩn hóa, sắp xếp lại phạm vi điều chỉnh, bỏ quy định
rườm rà về trách nhiệm quản lý nhà nước của từng bộ, ngành, thay vào đó giao
Chính phủ phân công cơ quan đầu mối thực hiện quản lý thống nhất. Theo đó, việc
phân cấp, giao quyền và phối hợp liên ngành trong quản lý hóa chất sẽ do Chính
phủ quy định chi tiết, bảo đảm linh hoạt, tránh chồng chéo, đồng thời tuân thủ
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Bộ Công Thương –
cơ quan chủ trì soạn thảo – giữ vai trò tổng hợp, xây dựng tiêu chuẩn, hướng dẫn
phân loại đặc tính nguy hiểm, giám sát hoạt động kinh doanh hóa chất đặc biệt,
nhưng không phải chịu trách nhiệm chi tiết về thực thi ở địa phương. Việc phân
chia rõ trách nhiệm giữa trung ương và địa phương, giao UBND các cấp trong việc
cấp giấy phép, kiểm tra an toàn, quản lý kho chứa, giám sát hoạt động, là điểm
mới giúp nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Một trong những bước đột phá quan trọng của Luật là thiết lập
Cơ sở dữ liệu chuyên ngành hóa chất và đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý. Luật
quy định các tổ chức, cá nhân kinh doanh hóa chất đặc biệt bắt buộc phải lập
“Phiếu kiểm soát mua, bán hóa chất” và cập nhật thông tin trên hệ thống; người
sử dụng hóa chất phải công bố loại hóa chất, thành phần, mục đích sử dụng trước
khi đưa vào hoạt động. Cơ sở dữ liệu này được kết nối với Chuyển đổi số Quốc
gia, cho phép truy xuất nguồn gốc, giám sát gián tiếp việc vận chuyển, giao nhận
và sử dụng hóa chất. Nhờ đó, cơ quan chức năng có thể phát hiện sớm hành vi
buôn lậu, sản xuất trái phép, sử dụng hóa chất cấm hay sai mục đích, qua đó giảm
thiểu rủi ro an ninh hóa chất và nguy cơ ô nhiễm môi trường. Luật cũng khuyến
khích áp dụng công nghệ nhận diện thông minh, IoT và blockchain để minh bạch
chuỗi cung ứng, tạo khung pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp ứng dụng giải pháp
số, đồng thời mở đường cho việc phát triển nền kinh tế số trong ngành hóa chất.
Về an toàn và an ninh hóa chất, Luật mở rộng danh mục hành
vi cấm, bao gồm không chỉ sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, tồn trữ trái phép,
mà còn cấm sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc trong sản xuất thực phẩm, thuốc,
mỹ phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Việc này nhằm ngăn
ngừa ngộ độc, độc hại tích lũy, ô nhiễm đất đai, nước và không khí. Các quy định
về an ninh hóa chất chú trọng ngăn chặn sở hữu, lưu hành và sử dụng sai mục
đích các hóa chất có tiềm năng làm vũ khí sinh học, vũ khí hóa học hay chất độc
hại. Luật lần đầu tiên đưa ra khái niệm “an ninh hóa chất” – áp dụng biện pháp,
quy định nhằm ngăn chặn việc sở hữu bất hợp pháp, sử dụng sai mục đích hóa chất,
thiết bị hóa học để duy trì ổn định, không đe dọa sự tồn tại và phát triển bình
thường của cá nhân, tổ chức và xã hội.
Liên quan đến xử lý sự cố hóa chất, Luật quy định nhà nước
có chính sách nâng cao năng lực phòng ngừa và ứng phó sự cố hóa chất trong lĩnh
vực dân sự, bao gồm hỗ trợ đào tạo, huấn luyện, trang bị phương tiện, xây dựng
kịch bản ứng phó liên ngành giữa các lực lượng quản lý thị trường, công an, cảnh
sát môi trường, y tế, quân đội và cơ quan phòng cháy chữa cháy. Trong giai đoạn
đầu, việc phối hợp và phân công nhiệm vụ giữa các lực lượng được thực hiện theo
quy định tại Luật Phòng cháy chữa cháy, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Công an
nhân dân và các văn bản hướng dẫn liên quan; về lâu dài, Chính phủ được giao
quyền xây dựng khung cơ chế phối hợp đặc thù cho các tình huống khẩn cấp về hóa
chất, nhằm rút ngắn thời gian đáp ứng, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản.
Về trách nhiệm của chủ đầu tư dự án hóa chất, Luật quy định
rõ việc tuân thủ quy định về lựa chọn công nghệ, thiết kế phải bảo đảm an toàn,
tiết kiệm tài nguyên, giảm thiểu sử dụng hóa chất nguy hiểm; chủ đầu tư phải
xây dựng và thực hiện kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất; lập
báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo kinh tế – kỹ thuật phải có nội dung áp dụng
nguyên tắc hóa học xanh. Những quy định này không chỉ nâng cao yêu cầu về kỹ
thuật, công nghệ mà còn đặt ra yêu cầu văn hóa an toàn và trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp trong toàn bộ vòng đời dự án.
Một thay đổi đáng chú ý khác là Luật lần đầu tiên đưa “Thông
tin hóa chất” thành một chương riêng, bao gồm quy định về bảo mật thông tin,
lưu trữ, chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, chuyển trao công khai thông tin
về đặc tính độc hại, hướng dẫn sử dụng an toàn, nhãn mác, cảnh báo nguy hiểm.
Chính phủ được giao thẩm quyền quy định chi tiết các dữ liệu phải công khai, cơ
chế truy cập và bảo vệ dữ liệu nhạy cảm, đặc biệt là thông tin liên quan hóa chất
nguy hiểm trong sản phẩm, hàng hóa. Điều này tạo tiền đề pháp lý cho việc xây dựng
Nền tảng Công cụ Quản lý thông tin hóa chất quốc gia, kết nối với các bộ, ngành
và địa phương, giúp người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý dễ dàng tiếp cận,
tra cứu và giám sát.
Nhìn chung, Luật Hóa chất (sửa đổi) năm 2025 đánh dấu sự
chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý nhà nước về hóa chất, từ quản lý thủ
công, rời rạc sang quản lý tập trung, minh bạch và chủ động dự báo rủi ro. Việc
chuyển giao quyền hạn, phân cấp gắn với trách nhiệm của chính quyền địa phương,
phối hợp liên ngành trong phòng ngừa, ứng phó sự cố, kết hợp chuyển đổi số và
xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành, thiết thực triển khai nguyên tắc “hóa học
xanh” trong phát triển công nghiệp hóa chất là những bước đi có tính chiến lược.
Khi Luật chính thức có hiệu lực, các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu và các cấp
chính quyền sẽ cần nhanh chóng hoàn thiện văn bản hướng dẫn, tổ chức đào tạo,
nâng cao nhận thức để sớm thích nghi với khung pháp lý mới, hướng tới mục tiêu
phát triển ngành hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại, an toàn
và bền vững, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và bảo vệ
môi trường cho các thế hệ mai sau.
Huyền Hoàng