Chiều
ngày 24/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội đã biểu
quyết thông qua nhiều đạo luật và nghị quyết có ý nghĩa quan trọng trong việc
tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách
tư pháp, đảm bảo quyền lực được giám sát chặt chẽ và giải quyết linh hoạt các
vướng mắc trong thực tiễn pháp luật.
.jpg)
Đoàn
ĐBQH Hà Giang tham dự Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi): Với 414/416 đại biểu Quốc hội có mặt
tham gia biểu quyết tán thành. Tăng tính độc lập và hiệu lực hệ thống tư pháp. Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) được thông qua với nhiều điểm mới quan trọng,
khắc phục các hạn chế của mô hình tổ chức tòa án hiện hành. Điểm nhấn của luật
là việc tái cấu trúc hệ thống tòa án theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, phân định
rõ thẩm quyền giữa các cấp tòa, đồng thời tăng tính độc lập của thẩm phán trong
xét xử. Cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động thẩm phán được quy định chặt chẽ,
có cơ chế kiểm soát nhưng vẫn đảm bảo tính
linh hoạt và độc lập trong hoạt động nghề nghiệp.
Theo
luật, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân khu vực (Điều 60) bao gồm: Các Tòa
chuyên trách gồm Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính, Tòa Gia
đình và người chưa thành niên; Tòa Phá sản, Tòa Sở hữu trí tuệ tại một số Tòa
án nhân dân khu vực.
Căn
cứ quy định tại điểm này và yêu cầu của thực tiễn xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân
khu vực, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa Hình sự,
Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính, Tòa Gia đình và người chưa thành niên.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa Phá sản, Tòa Sở hữu
trí tuệ tại một số Tòa án nhân dân khu vực. Trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
Về
tổ chức và hoạt động của Tòa án chuyên biệt (Điều 62), luật quy định: “Nhiệm vụ,
quyền hạn, trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp; tiếng nói, chữ viết
dùng trong tố tụng, việc áp dụng pháp luật tại Tòa án chuyên biệt; Thẩm phán giải
quyết tranh chấp và các nội dung khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của
Tòa án chuyên biệt do Quốc hội quy định”.
Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể và quy định về phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ của Tòa án chuyên biệt theo đề nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao. Luật cũng mở rộng áp dụng công nghệ thông tin trong xét xử,
phù hợp xu hướng chuyển đổi số ngành Tư pháp.
Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi): Với 409/412 đại biểu có mặt tán
thành. Luật được thông qua củng cố vai trò kiểm sát và thực hành quyền
công tố Việc sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan này trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Luật quy định hệ thống Viện Kiểm sát Nhân dân
gồm: Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh, thành phố; Viện
Kiểm sát Nhân dân khu vực; Viện kiểm sát quân sự các cấp. Số lượng Kiểm sát
viên Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao không quá 27 người. Tổng biên chế của Viện
Kiểm sát Nhân dân và Viện kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định. Số lượng Kiểm sát viên, cơ cấu
tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện Kiểm sát Nhân dân; số lượng, cơ
cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân
dân tối cao sau khi có ý kiến của Chính phủ. Số lượng Kiểm sát viên, cơ cấu tỷ
lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát quân sự; số lượng, cơ cấu
tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự trung ương do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân
dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Luật
làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp, quy định cụ thể hơn về
mối quan hệ phối hợp với các cơ quan tư pháp, đồng thời đảm bảo tính độc lập và
khách quan trong quá trình kiểm sát.
.jpg)
Quang
cảnh Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV
Nghị
quyết về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật: Với 397/411 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Nghị quyết gồm 7
điều quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách
nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Nghị
quyết quy định 3 tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
gồm: Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật
hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật; Quy định của văn bản quy phạm pháp luật
không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây
khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật; Quy định của văn bản quy phạm pháp
luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; chưa có quy định của văn bản quy phạm pháp
luật hoặc có quy định nhưng hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển động lực
tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập
quốc tế.
Về
nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 3 Nghị quyết
quy định 5 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật,
định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực
thi.
Nghị
quyết cho phép áp dụng cơ chế “thử nghiệm, linh hoạt” trong một số tình huống
chưa được pháp luật quy định rõ, giao Chính phủ chủ động đề xuất phương án tháo
gỡ và báo cáo Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét quyết định. Đây
được xem là một giải pháp đột phá trong bối cảnh thực tiễn triển khai chính
sách luôn đi nhanh hơn so với khuôn khổ pháp lý hiện hành.
Nghị
quyết có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua (24/6/2025) đến hết ngày
28/2/2027.
Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND: Đại biểu tiến hành biểu quyết, với 415/418 đại
biểu tham gia tán thành thông qua Luật.
Việc
sửa đổi Luật lần này, quan điểm xuyên suốt là phạm vi sửa đổi, bổ sung tập
trung phục vụ việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, thực hiện mô hình tổ chức chính
quyền địa phương 2 cấp; việc bầu cử sớm, rút ngắn nhiệm kỳ; chỉ sửa đổi, bổ
sung những vấn đề đã có chỉ đạo rõ của cấp có thẩm quyền, những vấn đề thật cần
thiết, cấp bách.
Luật
quy định, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội tại
địa phương; Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố, Ủy ban bầu cử ở xã, phường, đặc
khu tổ chức bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, đại biểu HĐND cấp xã tương ứng; các
Ban bầu cử, Tổ bầu cử thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND các cấp theo quy định của Luật này; Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử
đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của
Ban thường vụ Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35%
tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội
là phụ nữ.
Về
Hội nghị tiếp xúc cử tri, Luật quy định: Hội nghị tiếp xúc cử tri được tổ chức
theo hình thức trực tiếp hoặc căn cứ điều kiện thực tế có thể tổ chức theo hình
thức trực tuyến, trực tiếp kết hợp với trực tuyến. Việc tiếp xúc cử tri trực
tuyến hoặc trực tiếp kết hợp với trực tuyến chỉ được thực hiện khi bảo đảm các
điều kiện kỹ thuật, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng.
UBND
nơi tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri có trách nhiệm thông báo về hình thức, nội
dung, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị, điểm truy cập trực tuyến để cử tri
tham dự đông đủ…
Tăng
cường minh bạch, phù hợp tình hình mới Luật sửa đổi, bổ sung nhằm điều chỉnh những
bất cập phát sinh trong thực tiễn tổ chức bầu cử, đặc biệt là trong điều kiện đặc
biệt như thiên tai, dịch bệnh hoặc vùng sâu, vùng xa. Các điểm mới đáng chú ý
bao gồm: Bổ sung quy định về thời gian, hình thức tổ chức bầu cử linh hoạt hơn;
Làm rõ quy trình xác minh, công bố tư cách người ứng cử; Tăng cường trách nhiệm
của cơ quan giám sát bầu cử, đồng thời siết chặt quy trình kiểm phiếu và công bố
kết quả. Luật góp phần củng cố lòng tin của cử tri, đảm bảo tính chính danh và
minh bạch của các cơ quan dân cử. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Nghị
quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2026: Với 402/404 đại
biểu tham gia biểu quyết tán thành thông qua Nghị quyết về Chương trình giám
sát của
Quốc hội năm 2026 gồm 2 Điều, quyết nghị nội dung chương trình giám sát và tổ
chức thực hiện. Tập trung vào vấn đề cốt lõi, sát dân, bám thực tiễn.
Về
nội dung Chương trình giám sát năm 2026, Nghị quyết nêu rõ, tại Kỳ họp thứ nhất,
Quốc hội khóa XVI xem xét báo cáo kết quả công tác bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031; Xem xét báo
cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ
10, Quốc hội khóa XV.
Đồng
thời, xem xét các báo cáo của Chính phủ về: Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2025, tình hình
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những
tháng đầu năm 2026; Về tài chính nhà nước năm 2024; quyết toán ngân sách nhà nước
năm 2024; Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2025; Việc thực hiện
Nghị quyết số 172/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự
án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam…
Căn
cứ Chương trình giám sát của Quốc hội và điều kiện, tình hình thực tế, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội, đại biểu Quốc hội chủ động xây dựng, triển khai thực hiện Chương trình
giám sát của mình, trong đó nghiên cứu, tổ chức giám sát các nội dung liên quan
đến việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp
xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã và việc thực hiện mô hình chính quyền địa
phương 02 cấp bằng các hình thức phù hợp hoặc lồng ghép với các hoạt động giám
sát khác, bảo đảm hiệu quả; báo cáo kết quả thực hiện theo quy định của pháp luật.
Việc
thông qua các các đạo luật và nghị quyết này thể hiện quyết tâm chính trị cao của
Quốc hội trong việc hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà
nước, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.