quyết tâm thực hiện thắng lợi NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG KHÓA XVII, NHIỆM KỲ 2020 - 2025 

Quốc hội thông qua các luật và nghị quyết quan trọng tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV Hoàn thiện thể chế, thúc đẩy cải cách tư pháp và giám sát quyền lực

A- A+

Chiều ngày 24/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua nhiều đạo luật và nghị quyết có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách tư pháp, đảm bảo quyền lực được giám sát chặt chẽ và giải quyết linh hoạt các vướng mắc trong thực tiễn pháp luật.

 

Đoàn ĐBQH Hà Giang tham dự Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi): Với 414/416 đại biểu Quốc hội có mặt tham gia biểu quyết tán thành. Tăng tính độc lập và hiệu lực hệ thống tư pháp. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) được thông qua với nhiều điểm mới quan trọng, khắc phục các hạn chế của mô hình tổ chức tòa án hiện hành. Điểm nhấn của luật là việc tái cấu trúc hệ thống tòa án theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, phân định rõ thẩm quyền giữa các cấp tòa, đồng thời tăng tính độc lập của thẩm phán trong xét xử. Cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động thẩm phán được quy định chặt chẽ, có cơ chế kiểm soát nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt và độc lập trong hoạt động nghề nghiệp.

Theo luật, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân khu vực (Điều 60) bao gồm: Các Tòa chuyên trách gồm Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính, Tòa Gia đình và người chưa thành niên; Tòa Phá sản, Tòa Sở hữu trí tuệ tại một số Tòa án nhân dân khu vực.

Căn cứ quy định tại điểm này và yêu cầu của thực tiễn xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân khu vực, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính, Tòa Gia đình và người chưa thành niên. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa Phá sản, Tòa Sở hữu trí tuệ tại một số Tòa án nhân dân khu vực. Trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Về tổ chức và hoạt động của Tòa án chuyên biệt (Điều 62), luật quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp; tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng, việc áp dụng pháp luật tại Tòa án chuyên biệt; Thẩm phán giải quyết tranh chấp và các nội dung khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án chuyên biệt do Quốc hội quy định”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể và quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án chuyên biệt theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Luật cũng mở rộng áp dụng công nghệ thông tin trong xét xử, phù hợp xu hướng chuyển đổi số ngành Tư pháp.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi): Với 409/412 đại biểu có mặt tán thành. Luật được thông qua củng cố vai trò kiểm sát và thực hành quyền công tố Việc sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

 Luật quy định hệ thống Viện Kiểm sát Nhân dân gồm: Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh, thành phố; Viện Kiểm sát Nhân dân khu vực; Viện kiểm sát quân sự các cấp. Số lượng Kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao không quá 27 người. Tổng biên chế của Viện Kiểm sát Nhân dân và Viện kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định. Số lượng Kiểm sát viên, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện Kiểm sát Nhân dân; số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao sau khi có ý kiến của Chính phủ. Số lượng Kiểm sát viên, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát quân sự; số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự trung ương do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Luật làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp, quy định cụ thể hơn về mối quan hệ phối hợp với các cơ quan tư pháp, đồng thời đảm bảo tính độc lập và khách quan trong quá trình kiểm sát.

Quang cảnh Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV

Nghị quyết về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật: Với 397/411 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành. Nghị quyết gồm 7 điều quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.

Nghị quyết quy định 3 tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật gồm: Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật; Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật; Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; chưa có quy định của văn bản quy phạm pháp luật hoặc có quy định nhưng hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế.

Về nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 3 Nghị quyết quy định 5 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.

Nghị quyết cho phép áp dụng cơ chế “thử nghiệm, linh hoạt” trong một số tình huống chưa được pháp luật quy định rõ, giao Chính phủ chủ động đề xuất phương án tháo gỡ và báo cáo Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét quyết định. Đây được xem là một giải pháp đột phá trong bối cảnh thực tiễn triển khai chính sách luôn đi nhanh hơn so với khuôn khổ pháp lý hiện hành.

Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua (24/6/2025) đến hết ngày 28/2/2027.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND: Đại biểu tiến hành biểu quyết, với 415/418 đại biểu tham gia tán thành thông qua Luật.

Việc sửa đổi Luật lần này, quan điểm xuyên suốt là phạm vi sửa đổi, bổ sung tập trung phục vụ việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp; việc bầu cử sớm, rút ngắn nhiệm kỳ; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã có chỉ đạo rõ của cấp có thẩm quyền, những vấn đề thật cần thiết, cấp bách.

Luật quy định, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội tại địa phương; Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố, Ủy ban bầu cử ở xã, phường, đặc khu tổ chức bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, đại biểu HĐND cấp xã tương ứng; các Ban bầu cử, Tổ bầu cử thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp theo quy định của Luật này; Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Ban thường vụ Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.

Về Hội nghị tiếp xúc cử tri, Luật quy định: Hội nghị tiếp xúc cử tri được tổ chức theo hình thức trực tiếp hoặc căn cứ điều kiện thực tế có thể tổ chức theo hình thức trực tuyến, trực tiếp kết hợp với trực tuyến. Việc tiếp xúc cử tri trực tuyến hoặc trực tiếp kết hợp với trực tuyến chỉ được thực hiện khi bảo đảm các điều kiện kỹ thuật, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng.

UBND nơi tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri có trách nhiệm thông báo về hình thức, nội dung, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị, điểm truy cập trực tuyến để cử tri tham dự đông đủ…

Tăng cường minh bạch, phù hợp tình hình mới Luật sửa đổi, bổ sung nhằm điều chỉnh những bất cập phát sinh trong thực tiễn tổ chức bầu cử, đặc biệt là trong điều kiện đặc biệt như thiên tai, dịch bệnh hoặc vùng sâu, vùng xa. Các điểm mới đáng chú ý bao gồm: Bổ sung quy định về thời gian, hình thức tổ chức bầu cử linh hoạt hơn; Làm rõ quy trình xác minh, công bố tư cách người ứng cử; Tăng cường trách nhiệm của cơ quan giám sát bầu cử, đồng thời siết chặt quy trình kiểm phiếu và công bố kết quả. Luật góp phần củng cố lòng tin của cử tri, đảm bảo tính chính danh và minh bạch của các cơ quan dân cử. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.

Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2026: Với 402/404 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành thông qua Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2026 gồm 2 Điều, quyết nghị nội dung chương trình giám sát và tổ chức thực hiện. Tập trung vào vấn đề cốt lõi, sát dân, bám thực tiễn.

Về nội dung Chương trình giám sát năm 2026, Nghị quyết nêu rõ, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XVI xem xét báo cáo kết quả công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031; Xem xét báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.

Đồng thời, xem xét các báo cáo của Chính phủ về: Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2025, tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2026; Về tài chính nhà nước năm 2024; quyết toán ngân sách nhà nước năm 2024; Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2025; Việc thực hiện Nghị quyết số 172/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam…

Căn cứ Chương trình giám sát của Quốc hội và điều kiện, tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội chủ động xây dựng, triển khai thực hiện Chương trình giám sát của mình, trong đó nghiên cứu, tổ chức giám sát các nội dung liên quan đến việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã và việc thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp bằng các hình thức phù hợp hoặc lồng ghép với các hoạt động giám sát khác, bảo đảm hiệu quả; báo cáo kết quả thực hiện theo quy định của pháp luật.

Việc thông qua các các đạo luật và nghị quyết này thể hiện quyết tâm chính trị cao của Quốc hội trong việc hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Tác giả: Huyền Lê
Tin khác
KỲ HỌP THỨ 9 – DẤU ẤN TRÁCH NHIỆM, ĐỔI MỚI VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
Sau hơn 20 ngày làm việc nghiêm túc, khẩn trương, dân chủ và đầy trách nhiệm, ngày 27/6/2025, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã chính thức bế...
QUỐC HỘI KHÓA XV: NHỮNG BƯỚC TIẾN ĐỘT PHÁ, HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁP LUẬT VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, DÂN TỘC
Ngày 26.6, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã ghi dấu ấn mạnh mẽ bằng việc thông qua hàng loạt dự thảo luật và nghị quyết quan trọng, thể...
Quốc hội phê duyệt 6 dự án luật quan trọng: mở ra trang mới cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng...
Sáng ngày 25/6/2025, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông qua một loạt các dự án luật quan trọng, bao gồm sáu đạo luật cốt lõi, hứa hẹn sẽ tạo...
Quốc hội thông qua ba nội dung quan trọng: Luật sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Cán bộ, công...
Sáng ngày 24/6/2025, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua ba nội dung lập pháp quan trọng nhằm...
Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp và Nghị quyết giảm thuế giá trị gia tăng
Sáng 17/6, với tỷ lệ biểu quyết tán thành cao Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh...
< 1 2 3 > 
TIN XEM NHIỀU
  • Đang online: 11
  • Hôm nay: 199
  • Trong tuần: 2.453
  • Trong tháng: 41.309
  • Tất cả: 3.353.957
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
Địa chỉ: Số 01, Đường 26/3 - Phường Nguyễn Trãi - Thành phố Hà Giang - Tỉnh Hà Giang
Điện thoại: 02193.860.778 - Fax: 02193.860.778
Email: bbt.dbnd@hagiang.gov.vn hoặc tttthdndhg@gmail.com