Lời
tòa soạn: Cách đây gần 80 năm, ngày 6.1.1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta từ Bắc chí Nam đã tiến hành thắng lợi
cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trải qua
14 năm hoạt động trong hoàn cảnh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Quốc hội khóa
I (1946-1960) đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử hết sức vẻ vang, góp phần quan trọng
vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đưa miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Ghi nhận
công lao đóng góp của Quốc hội khóa I, trong phiên bế mạc Kỳ họp thứ 12 - kỳ họp
cuối cùng của Quốc hội khóa I, ngày 15.4.1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “…
Quốc hội ta đã hết lòng vì dân, vì nước, đã làm tròn một cách vẻ vang nhiệm vụ
của những người đại biểu nhân dân”.
Hướng tới kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam (6.1.1946 - 6.1.2026), Báo Đại biểu
Nhân dân trân trọng giới thiệu những bài viết của các ĐBQH qua các thời kỳ về
nhiệm kỳ Quốc hội đầu tiên cũng như sự đóng góp của đại biểu Quốc hội đối với sự
phát triển của Quốc hội nói riêng và đất nước nói chung.
Bài 1: Bác Hồ với Quốc hội khóa I và bản Hiến pháp đầu tiên (*)
- Võ Nguyên Giáp -
Đại
biểu Quốc hội Khóa I, tỉnh Nghệ An

Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội Khóa I họp
tại Nhà hát Lớn, Hà Nội. Ảnh: Tư liệu
Không lâu sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trở thành Bác Hồ với bao lo toan của người đứng đầu một Nhà nước vừa mới thiết
lập hầu như hoàn toàn từ con số không. Biết bao khó khăn chồng chất: Bọn phản
động bên trong, giặc xâm lăng ở bên ngoài, rồi giặc đói, giặc dốt… Chính quyền
vừa mới được thành lập đã xuất hiện tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, ức hiếp
dân chúng…
Bác Hồ đã phải suy
nghĩ nhiều trước thực tế đó. Bác nói như tâm sự với nhiều cán bộ từ Trung ương
tới cơ sở: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng nghĩa lý gì”.
Giữa bao nhiêu công
việc bộn bề của những ngày đầu dựng nước, Bác Hồ vẫn dành nhiều thời gian cho
việc xây dựng một Nhà nước kiểu mới mà trong đó nhân dân là chủ thể, với quan
điểm được Bác khẳng định ngay từ đầu: “Nước lấy dân làm gốc”, “Lực lượng toàn
dân là lực lượng vĩ đại hơn hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó”.
Ngày 17.9.1945, chỉ
hai tuần sau ngày tuyên bố độc lập, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, Bác
đã nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm nghiêm trọng của cán bộ đảng viên trong
các cơ quan chính quyền: “có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng,
hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để
báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”[1].
Theo Bác, Nhà nước
kiểu mới sinh ra từ Cách mạng tháng Tám phải là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Trong thư đề ngày 17.10.1945 “Gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng”, Bác viết:
“Chính phủ ta đã hứa
với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến
thiết nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần,… Song ngay từ bước đầu,
chúng ta phải theo đúng phương châm.
Chúng ta phải hiểu
rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”[2].
Tiếp đó, Bác dặn dò
những cán bộ của Nhà nước cách mạng những lời tâm huyết và mong muốn nó trở
thành phương châm hành động của các cấp chính quyền:
“Việc gì lợi cho dân,
ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân,
ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu
dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”[3].
Tư tưởng vì dân là
một tư tưởng lớn của Bác, quán triệt trong toàn bộ lời nói và việc làm của Bác,
trong cả cuộc đời hoạt động của Bác, là mục đích phấn đấu cao nhất của Bác.
Ngày 15.11.1945, nói
chuyện với học viên khóa 5 trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Bác ân cần căn
dặn:
“Phải nhớ rằng dân là
chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết.
Phải làm sao cho dân
mến… chớ bác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ…”[4].
Tuy nhiên, Bác hiểu
rằng, việc xây dựng Nhà nước mới không chỉ bằng những lời kêu gọi. Việc giáo
dục phải đi đôi với những biện pháp về tổ chức, cơ chế. Và Bác Hồ, với tầm hiểu
biết về mọi mặt của mình, qua kinh nghiệm của các nước, đã cùng với Đảng bắt
tay vào đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng mô hình một Nhà nước cộng hòa
non trẻ. Mô hình đó như thế nào? Đó thực sự là một quá trình trăn trở, tìm tòi,
vừa học, vừa làm, vừa bổ sung ngày một thêm hoàn chỉnh.
Trong phiên họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3.9.1945, chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc
lập, Bác Hồ nói với các vị Bộ trưởng, Thứ trưởng:
“Sau tám mươi năm bị
áp bức, bị bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và
tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính.
Nhưng điều đó không
làm chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng
chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm
sửa chữa khuyết điểm.
Với lòng yêu nước và
yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công…”[5].
Bác cho rằng, một trong
những cơ sở cần có đầu tiên của Nhà nước là Hiến pháp, mà muốn có Hiến pháp thì
phải có Quốc hội. Vì vậy, mặc dầu tình hình đất nước đang trong thế “ngàn cân
treo sợi tóc”, trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Bác vẫn đề ra một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn là phải tổ chức một cuộc Tổng
tuyển cử càng sớm càng tốt. Bác nói:
“Trước chúng ta đã bị
chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ
chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất
cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt
giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v”[6].
Ngày 8.9.1945, đúng
một tuần sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14,
quyết định tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước. Với sự kiện trọng đại
này, dân tộc Việt Nam ta sau khi là dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á làm cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc thành công, trở thành dân tộc đầu tiên thiết lập được
Nhà nước có chế độ chính trị với hình thức dân chủ cao nhất là phổ thông đầu
phiếu. Không phải ngẫu nhiên mà vinh quang này thuộc về dân tộc Việt Nam ta, mà
tên tuổi mãi mãi gắn liền với tên tuổi người con vĩ đại của mình: Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Trọng lịch sử hiếm có
quốc gia nào vừa giành được độc lập, với biết bao khó khăn đang chồng chất, lại
dám tổ chức một cuộc Tổng tuyển cử thực sự dân chủ như nước Việt Nam ta hồi ấy.
Thấy một số đồng chí tỏ vẻ lo lắng cuộc Tổng tuyển cử sẽ không đạt kết quả, do
trình độ nhân dân lúc bấy giờ còn quá thấp, Bác Hồ, với lòng tin tuyệt đối vào
lòng yêu nước của nhân dân, đã khẳng định: Nhân dân sẽ biết sử dụng lá phiếu
của mình. Tổng tuyển cử nhất định sẽ thành công.
Ngày 31.12.1945, Bác
viết bài đăng trên Báo Cứu quốc số 130:
“Tổng tuyển cử là một
dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác
công việc nhà nước.
Trong cuộc Tổng tuyển
cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân
thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi
giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó…
Do Tổng tuyển cử mà
toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thực sự là
Chính phủ của toàn dân”[7].
Cuộc Tổng tuyển cử
đầu tiên của dân tộc cách đây hơn 50 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác,
thể hiện một bầu không khí dân chủ thực sự, trong tất cả mọi khâu, từ việc giới
thiệu người ra ứng cử đến việc tuyên truyền, tranh cử…
Ngày 10.12.1945, danh
sách ứng cử viên khu vực Hà Nội được niêm yết rộng rãi. Trong danh sách, Bác
đứng thứ hai sau cụ Nguyễn Văn Tố. Tất cả 74 ứng cử viên, đăng tiểu sử kèm theo
ảnh trên báo, nhưng cử tri còn muốn được trực tiếp nghe các ứng cử viên nói rõ
chương trình hành động của mình. Đó là những cuộc tiếp xúc rộng rãi, diễn ra
hết sức sôi nổi ở khắp mọi nơi, trong một khung cảnh thật sự tự do và dân chủ,
giữa các cử tri và người ra ứng cử. Có khi chỉ hai, ba ứng cử viên cũng tổ chức
riêng một cuộc tiếp xúc để trình bày chương trình hành động của mình. Thậm chí,
có nơi như Hải Phòng, Nam Định…, có ứng cử viên đứng ra tổ chức lấy địa điểm,
tự chuẩn bị cả loa phóng thanh cho cuộc gặp mặt.
Việc ra ứng cử trong
cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên này cũng hoàn toàn tự nguyện, theo đúng lời Bác Hồ
nói: Hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử.
Chiều 5.1.1946, Bác
đến khu học xá (nay là trường Đại học Bách Khoa) cùng các ứng cử viên gặp gỡ cử
tri.
Hôm ấy, trước đông
đảo quần chúng có mặt, Bác đã nói với các ứng cử viên:
… Làm việc nước bây
giờ là hy sinh, là phấn đấu, là quên lợi riêng mà nghĩ đến lợi chung…
Rồi hướng về các cử
tri, Bác căn dặn: Những ai muốn làm “quan cách mạng” thì nhất định không nên
bầu. Ngày mai, không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện quyền dân chủ
của mình.
Ngày 6.1.1946, cuộc
Tổng tuyển cử đã được tiến hành và thành công tốt đẹp trên phạm vi cả nước. Bất
chấp sự phá hoại điên cuồng của bọn phản động ở phía Bắc và cuộc xâm lăng tàn
bạo của bọn thực dân Pháp ở phía Nam, tỷ lệ đi bầu ở các địa phương vẫn đạt từ
65% đến 95% và đã bầu ra được 333 đại biểu Quốc hội (Bắc Bộ 152 đại biểu, Trung
Bộ 108 đại biểu, Nam Bộ 73 đại biểu).
Đúng như lời Bác nói,
thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử là một minh chứng hùng hồn nói lên cơ sở vững
chắc của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một điều vô cùng quan trọng
trong tình hình đất nước lúc bấy giờ, khi Tổ quốc ta ở bán đảo Đông Dương xa
xôi này chưa thực sự có tên trên bản đồ chính trị thế giới.
Tổ chức thắng lợi
cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc đã là vô cùng khó khăn, tiến hành cuộc
họp Quốc hội đầu tiên trong tình hình bọn phản động tăng cường phá hoại lại
càng vô cùng phức tạp. Không ngăn cản được cuộc Tổng tuyển cử, bọn chúng quyết
tâm làm cho Quốc hội không họp được, hoặc nếu có họp thì cũng không đạt được
kết quả như chúng ta mong muốn. Điều trắng trợn là chúng đòi phải giành cho
chúng 70 ghế trong Quốc hội. Vì lợi ích của toàn dân tộc, Bác Hồ đã thuyết phục
các đại biểu chấp nhận yêu cầu đó.
Bây giờ vấn đề là
phải nhanh chóng triệu tập được cuộc họp của Quốc hội để đối phó kịp thời với
tình hình mới.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, t.4, tr.19
(*)
Trích đăng theo cuốn “Hồi ký Đại biểu Quốc hội khóa I” của Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia xuất bản năm 2000
[2]
Hồ Chí Minh: Sđd, tr.56
[3]
Hồ Chí Minh: Sđd, tr.56-57
[4]
Hồ Chí Minh: Sđd, tr.101
[5]
Hồ Chí Minh: Sđd, tr.7
[6]
Hồ Chí Minh: Sđd, tr.9
[7]
Hồ Chí Minh: Sđd, tr.133.